Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

Chủ quyền biển Đông: Ta phải tự quyết định số phận mình


Tác giả: THU HÀ


Nhà báo Thu Hà: Xin được chuyển sang câu chuyện hiện tại đang rất nóng liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông. Vấn đề này có được giới trí thức hai nước bàn thảo trong cuộc đối thoại không, thưa giáo sư?"Vấn đề Biển Đông là phức tạp. Nhưng khi trí thức hai nước cùng có nhận định cần gìn giữ hòa bình khu vực và cần có quan hệ hữu nghị giữa hai nước họ sẽ cùng nỗ lực làm cho vấn đề không phức tạp hơn".


GS. Trần Văn Thọ: Trước cuộc đối thoại, chúng tôi có đề nghị cả hai bên Việt và Trung chuẩn bị bản báo cáo về đề tài này nhưng cuối cùng chỉ có phía VN có bản báo cáo của giáo sư Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc gia Hà Nội). Tuy nhiên trong ngày hội thảo, phía TQ đã tham gia thảo luận sôi nổi.
Nhà báo Thu Hà: Vâng. Giáo sư Ngọc là người có nhiều bài viết, nghiên cứu chuyên sâu về chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông.
GS. Trần Văn Thọ: Theo tôi, nội dung bản báo cáo của giáo sư Ngọc rất có sức thuyết phục và có nhiều điểm mới lạ đối với tôi. Ngoài bản tóm tắt 3 trang theo yêu cầu của ban tổ chức, tác giả còn chuẩn bị một bài viết dài, kèm theo nhiều bản đồ, chụp lại từ các tư liệu trong nghiên cứu của các học giả phương Tây. Tôi đặc biệt chú ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, người phương Tây đã xác định Hoàng Sa là của Chiêm Thành. Nhiều bản đồ hàng hải phương Tây đánh dấu ở khu vực quần đảo Hoàng Sa cái tên rất có ý nghĩa là Baxos de Chapar (bãi đá ngầm Chămpa) và Pulo Capaa (đảo của Chămpa). Nhiều bản đồ phương Tây cuối thể kỷ 16 đã vẽ rõ và chính xác các quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và khu vực duyên hải miền Trung tương đương với tỉnh Quảng Ngãi sau này là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa).
Thứ hai, địa giới Đại Việt đến trước thời điểm quân Minh xâm lăng đã được mở rộng đến Quảng Ngãi. Năm 1490 Lê Thánh Tôn cho hoàn thành bản đồ toàn quốc trong đó cho đánh dấu vị tri của Bãi Cát Vàng. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) đẩy mạnh giao thương quốc tế, phát triển thương cảng Hội An, mở rộng lãnh thổ xuống miền Đông Nam bộ, đặt ra đội Hoàng Sa khai thác và quản lý khu vực Bãi Cát Vàng và một phần Bãi Cát Dài ở phía Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự kiểm quản của Đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật, kiểm tra, kiểm soát thục thi chủ quyền.
Thứ ba, năm 1803 Gia Long lập đội Hoàng Sa có chức năng khai thác và quản lý đảo nầy. Liên tục trong các năm 1815 và 1816, vua sai đội nầy ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển. Hoạt động của vua Gia Long được nhiều người phương Tây chứng kiến và đề cao. Chẳng hạn, trong hồi ký của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) nói là đến năm 1816 nhà vua đã chiếm được hòn đảo này. Giám mục Jean Louis Taberd thì cho rằng người Đàng Trong gọi khu vực Paracels là Cồn Vàng, khẳng định Paracels thuộc An Nam.
Nhà báo Thu HàVà trí thức phía Trung Quốc đã phản ứng như thế nào?
GS. Trần Văn Thọ: Giáo sư Yang Daqing (Dương Đại Khánh), người đang dạy học ở Mỹ nói rằng, các sách báo của Trung Quốc mà ông đã đọc được lại nói ngược lại, rằng tư liệu của TQ và của các học giả phương Tây chứng minh rằng Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) là của TQ. Tuy nhiên ông không đi vào chi tiết cụ thể mà chủ trương rằng, cùng tham khảo các nguồn tư liệu giống nhau nhưng VN và TQ lại rút ra các kết luận trái ngược nhau. Đây là điểm các nhà nghiên cứu hai nước nên cùng hợp tác nghiên cứu để xem chân lý nằm ở đâu.
Còn giáo sư Yu Xiangdong (Vu Hướng Đông), Viện trưởng Viện nghiên cứu Việt Nam tại Đại học Trịnh Châu (Hà Nam), thì cho rằng TQ có đầy đủ tư liệu chứng minh Tây Sa và Nam Sa là của TQ (thực ra là Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam - pv), rằng những tư liệu mà giáo sư Ngọc đưa ra chỉ liên quan đến những đảo nhỏ nằm gần bờ biển VN.
Nhà báo Thu HàGiáo sư Ngọc của Việt Nam đã trả lời họ ra sao ạ?
GS. Trần Văn Thọ: GS Nguyễn Quang Ngọc cho rằng, trước những chứng cứ không thể phủ nhận về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, các nhà nghiên cứu Trung Quốc như Hàn Chấn Hoa, Đới Khả Lai, Lý Quốc Cường, Vu Hướng Đông... đã tìm cách chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa chỉ là các đảo ven bờ biển miền Trung Việt Nam.
Tiêu biểu nhất và gần đây nhất là Giáo sư Vu Hướng Đông trong luận án Tiến sĩ mới bảo vệ tại Đại học Hạ Môn năm 2008 đã đưa ra lập luận rằng vì Đội Hoàng Sa (do Gia Long lập) dùng người ở đảo Lý Sơn (tức là Cù Lao Ré, cách cửa biển Sa Kỳ khoảng 20 km, nay là huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) cho nên có thể suy ra Lý Sơn chính là đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, họ cho rằng Trường Sa chỉ là các dải cát mang tên Đại Trường Sa, Tiểu Trường Sa trong đất liền thuộc bờ biển tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay. Với các chủ trương đó, họ cho rằng họ công nhận VN có chủ quyền nhưng chủ quyền của VN chỉ là các đảo ven bờ, còn các đảo ở giữa Biển Đông (mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa) hoàn toàn không phải là Hoàng Sa, Trường Sa (như tài liệu của VN) và Pracels, Sprattly (như tài liệu của phương Tây).
Nói khác đi, họ chủ trương là các đảo ở Tây Sa và Nam Sa là chủ quyền của họ, không liên quan gì đến Hoàng Sa, Trường Sa hay Paracels, Spratly cả. Tuy nhiên, theo giáo sư Ngọc, tất cả các nguồn tư liệu thư tịch và bản đồ cổ của Việt Nam, phương Tây và của cả Trung Quốc đều phân biệt một cách rạch ròi Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông với các đảo ven bờ VN. Đây là điều ai cũng có thể nhận ra nếu thực sự muốn nghiên cứu nghiêm túc.
Sau đó, giáo sư Nguyễn Quang Ngọc có nói thêm là khi Pháp chuyển giao cho Bảo Đại toàn bộ Nam kỳ có bao gồm cả Hoàng Sa và tại Hội nghị San Francisco (1951), thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền Bảo Đại có tuyên bố chủ quyền của VN tại quần đảo Hoàng Sa và không có ai phản đối.
Nhà báo Thu Hà: Là người khởi xướng đối thoại trí thức thức Việt - Trung và cũng là người chủ trì hai cuộc đối thoại vừa rồi, chúng tôi xin được biết quan điểm của giáo sư về những vấn đề đang còn tranh cãi giữa học giả hai nước?
GS. Trần Văn Thọ: Với tư cách là người trong ban chủ tọa và vì thì giờ rất ít cần ưu tiên cho các vị đến từ VN và TQ, tôi chỉ phát biểu lúc khai mạc và lúc tổng kết, nhưng về vấn đề Biển Đông tôi thấy có một điểm quan trọng mà hai bên không ai nói tới nên mới chen vào hỏi một câu về quần đảo Hoàng Sa (của VN). Đó là sự kiện TQ dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 từ VN Cộng hòa.
Câu hỏi của tôi đặt ra chủ yếu cho giáo sư Vu Hướng Đông, đó là cho đến thời điểm đó, Hoàng Sa thuộc chủ quyền của VN Cộng hòa. Nếu TQ chủ trương Hoàng Sa là của họ, vậy trước năm 1974 vì bối cảnh nào, và vào năm nào, chủ quyền Hoàng Sa lại chuyển từ TQ sang VN Cộng hòa? Nhưng giáo sư Vu Hướng Đông không trả lời trực tiếp câu hỏi nầy, chỉ nói lại ý kiến đã phát biểu rằng năm 1974 TQ có hành động quân sự là để thu hồi lại chủ quyền vốn có của mình và nói thêm là "Từ xưa đến nay nhiều tài liệu lịch sử cũng như nghiên cứu của các học giả TQ như Hàn Chấn Hoa và Đới Khả Lai đã chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa".
Sau hội thảo tôi có viết thư cho giáo sư Vu Hướng Đông nhắc lại câu hỏi nói trên và đề nghị ông trả lời bổ túc vì nghĩ rằng ở hội thảo thì giờ có ít, trả lời chưa đủ. Ông có phản hồi nhưng rất tiếc hoàn toàn không có sức thuyết phục. Ông bảo "năm 1946 TQ đã cử tư lệnh hải quân đến chiếm lại Hoàng Sa, nhưng trong thập niên 1950s, chính phủ miền nam VN với sự yểm trợ của Mỹ đã xâm phạm quần đảo này". Tôi lại  hỏi tiếp, vậy trước năm 1946 do bối cảnh nào mà Hoàng Sa chuyển chủ quyền từ TQ sang VN, và năm cụ thể nào trong thập niên 1950 Mỹ đã giúp chính quyền Sài Gòn chiếm Hoàng Sa của TQ. Nhưng tiếc là giáo sư Vu Hướng Đông không trả lời thêm nữa.
Trong hội thảo, phía VN có đề nghị bên TQ có bài báo cáo chi tiết về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như bản báo cáo của giáo sư Nguyễn Quang Ngọc.
Nhà báo Thu Hà: Rõ ràng, giữa trí thức hai nước vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Ông có nghĩ rằng, những trí thức tham gia đối thoại sẽ thoải mái chia sẻ quan điểm, góc nhìn với nhau không?
GS. Trần Văn Thọ: Từ kết quả hai hội nghị đối thoại trí thức Việt Trung, kể cả sự cảm nhận về những vấn đề nổi lên trong quá trình chuẩn bị, tôi có mấy nhận xét và suy nghĩ như sau:
Bảy giáo sư TQ tham gia đối thoại dĩ nhiên không thể nói là đại biểu cho suy nghĩ chung của trí thức TQ nhưng có lẽ cũng không ít người có cùng quan điểm như họ. So với suy nghĩ, nhận định của trí thức VN, rõ ràng có nhiều điểm khác nhau. Nhưng tùy vấn đề, qua đối thoại và nỗ lực tìm hiểu, quan điểm hai bên có thể xích lại gần hơn. Quan hệ Việt - Trung trong thời phong kiến nhìn chung nhận định hai bên không khác lắm. Quan hệ hai nước trong giai đoạn 1950-1972 là điểm có nhiều tranh cãi nhưng cùng với độ lùi của thời gian và với nhiều tư liệu được công khai, khoảng cách về nhận thức sẽ thu hẹp.
Về giai đoạn từ giữa thập niên 1970 đến hết thập niên 1980 mà đỉnh điểm là chiến tranh biên giới năm 1979, cả lãnh đạo hai nước đều không muốn nhắc đến với lý do là "muốn cùng khép lại quá khứ để hướng tới tương lai". Trong giới trí thức TQ có lẽ có nhiều nhận định khác nhau. Một số suy nghĩ giống ý kiến chính thống của nhà nước TQ, nhất là của giới cầm quyền thời đó. Nhưng cũng có người khách quan hơn. Năm 2005 trong một hội nghị ở Indonesia tôi gặp một giáo sư kinh tế nổi tiếng thuộc Viện khoa học xã hội của TQ. Trong khi trò chuyện lúc giải lao, tự nhiên ông ta nhắc đến chiến tranh 1979 và nói "trong sự kiện đáng tiếc đó, cả TQ và VN đều có sai lầm". Theo tôi, những trí thức chân chính của TQ không ai cho đó là "phản kích tự vệ" như nhiều người quá khích của TQ chủ trương. Về vấn đề này ta cũng có thể hy vọng rằng cùng với độ lùi của thời gian và với nhiều tư liệu được công khai, trí thức hai nước sẽ có quan điểm không khác nhau nhiều.
Vấn đề Biển Đông là phức tạp nhất. Theo tôi, nhiều trí thức TQ không nghĩ là chủ trương của nhà nước họ là có sức thuyết phục (ý kiến bảo vệ chủ trương của TQ mạnh mẽ như giáo sư Vu Hướng Đông tại hội nghị có lẽ không nhiều), nhưng họ không dám công khai nói ngược lại với chủ trương đó. Do đó, tôi không hy vọng các cuộc đối thoại trí thức Việt Trung sẽ góp phần giải quyết vấn đề biển Đông.
Tuy nhiên khi trí thức hai nước cùng có nhận định cần gìn giữ hòa bình khu vực và cần có quan hệ hữu nghị giữa hai nước họ sẽ cùng nỗ lực làm cho vấn đề không phức tạp hơn.
Những trí thức TQ chuyên nghiên cứu về VN vì mục đích học thuật nhìn chung có thiện cảm với ta và có lẽ họ thật sự mong hai nước giữ quan hệ hữu hảo. Đa số họ có nỗ lực đào xới, làm rõ những mặt tích cực trong quan hệ Việt Trung và tìm những khả năng mới để góp phần cải thiện quan hệ hai nước. Hai giáo sư Phan Kim Nga và Lưu Chí Cường trong cuộc đối thoại lần này là những điển hình.
Tôi cũng đã từng gặp nhiều người khác nữa. Dĩ nhiên nhiều người trong nhóm này họ chưa thấy hết những phức tạp trong quan hệ hiện nay.
Về những trí thức nói chung, nghĩa là những người không chuyên nghiên cứu về VN, thì có vẻ không hoặc ít quan tâm đến quan hệ Việt - Trung. Mời những người này tham gia các hội nghị đối thoại Việt Trung rất khó. Điều này cũng dễ hiểu.
Phải cải cách để phát triển và được thế giới nể trọng
Nhà báo Thu Hà: Như GS đã nói, cuộc đối thoại trí thức Việt-Trung sẽ gợi mở một số vấn đề VN cần quan tâm trong quá trình cải thiện quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Từ hai cuộc đối thoại đã được thực hiện, giáo sư có gợi mở gì nhằm giúp cải thiện mối quan hệ Việt-Trung hiện nay?
GS. Trần Văn Thọ: Thứ nhất, trong lịch sử, VN được TQ tôn trọng, nể trọng thật sự khi có những người lãnh đạo tài năng, trí tuệ và có tầm nhìn. Tại hội nghị vừa qua, Quang Trung và Hồ Chí Minh được nói tới như những trường hợp điển hình. VN còn có Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và nhiều người khác.
Ở cấp thấp hơn, trong lịch sử ta cũng có các sứ giả được TQ nể trọng như Phùng Khắc Khoan, Lê Quí Đôn,... Những bậc tiền nhân này tiếp xúc với TQ không có mặc cảm là người nước nhỏ, mà với tư thế ngang hàng với lãnh đạo và các tầng lớp tinh hoa của TQ. Họ đường đường là những con người có văn hóa, tự tin, bản lĩnh, trí tuệ, một mặt kính trọng nước láng giềng lớn mạnh và có nền văn hóa vĩ đại nhưng mặt khác bám chặt quyền lợi của đất nước, dân tộc mình với quan điểm và chủ trương riêng trong quá trình phát triển của đất nước.
"Quân tử hòa nhi bất đồng" (lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác và tìm cách xây dựng quan hệ tốt với họ nhưng vẫn giữ chủ trương, suy nghĩ của riêng mình, không thỏa hiệp vô nguyên tắc) cũng có thể áp dụng trong quan hệ đối xử với nước láng giềng đặc biệt này.
VN ngày nay muốn được TQ nể trọng cũng cần nhiều người có những tố chất như thế.
Thứ hai, về lâu dài VN muốn được TQ và các nước khác nể trọng phải từng bước vững chắc phát triển thành một nước giàu, mạnh, văn minh, hài hòa với môi trường, với xã hội và thế giới. Rất tiếc hiện nay VN chưa có những điều kiện để đạt được mục tiêu đó. Chỉ có cải cách triệt để mới giải quyết được các vấn đề này.
So với TQ, VN nhỏ và yếu hơn. Nhưng VN có thể đi trước TQ về chất lượng thể chế nếu có quyết tâm cải cách. Và đây là điều kiện cần để VN cải thiện vị trí so với TQ.
Mới đây có một bài bình luận về VN trên báo Asahi, tờ nhật báo lớn, có uy tín tại Nhật. Tác giả bài báo, một nhà bình luận, phê phán truyền thông Nhật Bản là không tích cực đăng các tin tức về tình hình thiếu dân chủ, thiếu tự do ngôn luận tại VN, và kêu gọi người Nhật phải quan tâm mặt này khi đánh giá về nước VN. Từ khi VN nhận viện trợ từ các nước tư bản tiên tiến (1993), Nhật Bản luôn luôn là nước viện trợ nhiều nhất cho VN. Gần đây, đối với Nhật, VN cũng đã trở thành nước nhận viện trợ nhiều nhất của họ. Đầu tư của Nhật tại VN cũng tiếp tục tăng. Người Nhật nói chung nhìn VN qua những tiêu chí đó. Do đó, bài bình luận trên báo Asahi chắc chắn ảnh hưởng đến suy nghĩ của người Nhật.
Thứ ba, đối thoại giữa trí thức hai nước Việt Trung như chúng tôi tổ chức đã cho thấy một số kết quả. Nếu được tổ chức với qui mô lớn và thường xuyên hơn chắc chắn sẽ có hiệu quả tốt về lâu dài trong quan hệ hai nước. Nhà nước, doanh nghiệp và các đoàn thể khác tại VN nên tạo điều kiện thúc đẩy, hỗ trợ các chương trình đối thoại độc lập của trí thức, song song với giao lưu cấp nhà nước hay các hội nghị "quan phương".
Khác với các hội nghị "quan phương", đối thoại giữa những trí thức có quan điểm độc lập, với tinh thần khoa học, trọng sự thực sẽ là cơ sở bền vững tạo sự tin tưởng, tin cậy lâu dài.
Đặc biệt VN cần tạo điều kiện để lôi cuốn được sự quan tâm của giới trí thức không chuyên nghiên cứu về VN. Các nhà nghiên cứu về VN của TQ thường có điều kiện và có nhu cầu sang VN nhiều, có nhiều cơ hội giao lưu với học giả phía VN nhưng những trí thức nói chung thì các cơ hội này rất ít và họ cũng ít quan tâm nếu không có sự chủ động của phía VN.
Quá trình chuẩn bị và danh sách người tham gia trong hai cuộc đối thoại trí thức Việt Trung
Tháng 7 năm 2011 chúng tôi tổ chức hội nghị trù bị, qui mô nhỏ, mục đích làm thử, lấy kinh nghiệm để tổ chức các hội nghị lớn hơn cho những năm sau. Chúng tôi mời 2 trí thức từ VN và 2 trí thức từ Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị mỗi người chuẩn bị bản báo cáo ngắn gồm các nội dung như quan điểm, nhận định của riêng mình, và của dân chúng nước mình đối với nước đối thoại, và đâu là biện pháp để cải thiện, thúc đẩy quan hệ hai nước Việt Trung. Vì là tổ chức tại Nhật, dung kinh phí của một cơ quan Nhật, hơn nữa để cho cuộc đối thoại phong phú, chúng tôi mời thêm 2 giáo sư Nhật Bản, một chuyên về lịch sử VN và một chuyên về lịch sử TQ.
Về phía VN, chúng tôi mời giáo sư Chu Hảo, ủy viên đoàn chủ tịch Liên hiệp hội khoa học VN, Giám đốc nhà xuất bản Tri thức, và giáo sư Đỗ Tiến Sâm, Viện trưởng Viện nghiên cứu TQ thuộc Viện Khoa học xã hội VN. Anh Chu Hảo là một trong những trí thức tiêu biểu của VN hiện nay. Anh Đỗ Tiến Sâm là một trong nhũng chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc. Chúng tôi dự định mời những trí thức tiêu biểu và thuộc nhiều lớp tuổi khác nhau, không nhất thiết phải là chuyên gia về TQ (về phía TQ thì không nhất thiết mời chuyên gia về VN) nhưng cũng cần một vài người chuyên về quan hệ hai nước, nhất là khi chuẩn bị các bản báo cáo cần kiến thức chuyện môn. Về phía Trung Quốc, việc chọn lựa bước đầu khó hơn. Cuối cùng chúng tôi mời giáo sư Bộ Bình (Bu Ping), Viện trưởng Viện Sử cận đại thuộc Viện khoa học xã hội TQ và một phó giáo sư thuộc Đại học Thanh Hoa  (theo yêu cầu của đương sự chúng tôi xin không nêu tên ở đây).
Tại hội nghị trù bị, ý kiến hai bên Việt Trung về quan hệ hai nước từ thế kỷ 19 trở về trước không khác nhau mấy, nhưng về nguyên nhân của tình hình căng thẳng hiện nay thì tranh cãi khá sôi nổi. Tuy nhiên mọi người đều vui vẻ khi hội nghị kết thức và ai cũng cho rằng việc đối thoại là hữu ích và cần tiếp tục.
Trong việc chuẩn bị cho lần đối thoại chính thức tổ chức năm nay (tháng 6/2012), chúng tôi chọn 3 chủ đề xét thấy quan trọng nhất: (1) Quan hệ Việt Trung thời cổ trung đại (từ giữa thế kỷ 19 trở về trước), (2) Quan hệ Việt Trung từ cuối thế kỷ 19 đến ngày nay, và (3) Quan hệ Việt Trung được viết như thế nào trong sách giáo khoa lịch sử ở hai nước. Lần nầy mời VN và TQ mỗi nước 5 người, 3 người chuẩn bị 3 bản báo cáo về 3 chủ đề trên, 2 người còn lại có vai trò bình luận về các bản báo cáo của nước đối thoại.
Năm người phía VN, ngoài hai giáo sư Chu Hảo và Đỗ Tiến Sâm đã tham dự hội nghị trù bị, lần này thêm Phó Giáo sư Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội) phụ trách bản báo cáo về đề tài (1), đặc biệt xoay quanh vấn đề triều cống; giáo sư Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc gia Hà Nội) phụ trách viết báo cáo về đề tài (2) trong đó xoay quanh vấn đề Biển Đông; và Phó Giáo sư Đào Tố Uyên (Đại học Sư phạm Hà Nội) viết về đề tài (3).
Về phía Trung Quốc, việc chọn mời tham dự gặp khó khăn và khá mất thì giờ. Hai người tham dự hội nghị trù bị năm ngoái lần nầy không đến được với lý do không thu xếp được thì giờ. Một số trí thức chúng tôi tiếp cận thì ngại vì hình như họ không hiểu tại sao đối thoại trí thức Việt Trung lại tổ chức tại Nhật, có phải có ý đồ Nhật Việt liên kết để bao vây Trung Quốc chăng. (Điều nầy cũng dễ hiểu, nhưng sau khi tham dự hội nghị rồi thì không ai có nghi vấn nầy). Cũng có người ngại phải phát biểu ý kiến khác với quan điểm chính thống của nhà nước họ.
Tuy vậy cuối cùng chúng tôi cũng mời được 5 người, ba người chuyên nghiên cứu về VN, hai người về quan hệ quốc tế. Tiếc là không có ai phụ trách đề tài (3) nói trên. Giáo sư Phan Kim Nga, nghiên cứu về VN tại Viện Mác thuộc Viện Khoa học xã hội TQ, viết về các giai đoạn trong lịch sử quan hệ Trung Việt, bao trùm cả hai đề tài (1) và (2). Phó giáo sư Lưu Chí Cường, Đại học Dân tộc Quảng tây, viết về đề tài (2) nhưng chỉ xoay quanh quan hệ giữa ba lãnh tụ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh. Tham dự phía TQ đặc biệt có giáo sư Vu Hướng Đông, Viện trưởng Viện nghiên cứu VN ở Trịnh Châu (Hà Nam), được biết ông là người phê phán VN rất mạnh về vấn đề Biển Đông. Một thành viên nữa là Phó giáo sư Dương Đại Khánh thuộc Đại học George Washington đang làm thỉnh giảng tại Đại học Waseda.
Trong hội nghị chính thức lần nầy chúng tôi mời 4 giáo sư Nhật tham gia, hai người chuyên về lịch sử VN (Furuta Motoo, giáo sư Đại học Tokyo, và Shiraishi Masaya, giáo sư Đại học Waseda) và hai người chuyên về lịch sử TQ (Ishii Akira, giáo sư danh dự Đại học Tokyo, và Murata Yujiro, giáo sư Đại học Tokyo). Về việc thông dịch và các việc hậu cần cho hội nghị, vì kinh phí hạn hẹp, chúng tôi nhờ các em sinh viên, nghiên cứu sinh từ VN và TQ sang du học tại Đại học Waseda.
GS. Trần Văn Thọ

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Quan hệ Việt-Trung: Bài học từ lịch sử


"Nước lớn phải lấy chữ nhân để đối xử với nước nhỏ, với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không áp đặt. Nước nhỏ thì dùng trí để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, xem nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng và có những lãnh đạo tài trí".- GS. Trần Văn Thọ.


LTS: Thưa quí vị độc giả, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng "núi liền núi, sông liền sông". Trong quá khứ và hiện tại, có nhiều lúc mối quan hệ này đồng chí hướng, nhiều lúc không thật hài hòa, đặc biệt hiện nay hai nước đang khúc mắc trong vấn đề chủ quyền biển, đảo.
Đối thoại trí thức Việt-Trung là sáng kiến của GS. Trần Văn Thọ (Đại học Wesada, Nhật Bản). Giáo sư hy vọng qua các cuộc đối thoại, trí thức hai nước sẽ hiểu biết, tin tưởng nhau hơn và họ sẽ tác động tích cực đến các tầng lớp dân chúng khác để nhân dân hai nước hòa hiếu với nhau, điều kiện để cùng chung sống hòa bình. Nhằm cung cấp thêm tư liệu để độc giả suy ngẫm, Tuần Việt Nam giới thiệu cuộc trò chuyện của nhà báo Thu Hà với GS. Trần Văn Thọ xung quanh các cuộc đối thoại trí thức Việt-Trung vừa được tổ chức tại Tokyo (Nhật Bản).
Kỳ 1 của loạt bài xoay quanh vấn đề Quan hệ Việt-Trung: Bài học lịch sử về điều kiện để có quan hệ tương kính.
Nhà báo Thu Hà: Thưa giáo sư Trần Văn Thọ, được biết ông là người nêu sáng kiến về sự cần thiết phải có đối thoại trí thức giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thực ra thì giới trí thức trên thế giới luôn có rất nhiều cơ hội để chia sẻ quan điểm, góc nhìn. Không biết vì sao ông nghĩ rằng những cuộc đối thoại giữa trí thức Việt Nam và Trung Quốc cần phải đặt thành vấn đề vào thời điểm hiện nay?
GS. Trần Văn Thọ: Quan hệ giữa Việt Nam (VN) và Trung Quốc (TQ) từ khoảng năm 2007 có nhiều diễn tiến xấu. Một trong những nguyên nhân lớn là tình hình khẩn trương ở Biển Đông. Phản ứng của dân chúng VN, đặc biệt là giới trí thức như ta đã biết nhưng dân chúng TQ hình như nhiều người cũng cho rằng họ đúng. Tháng 3 năm 2010 nhân dịp thăm Quảng Châu tôi có gặp một số giáo sư ở Đại học Trung Sơn. Tuy mục đích cuộc gặp là trao đổi về kinh tế Á châu nhưng cũng có hai người tìm cách nhắc đến Biển Đông và cho rằng VN quá khích, xâm phạm chủ quyền của TQ.
Ngoài ra, mỗi năm đến tháng 2, cuộc chiến tranh biên giới 1979 lại khơi dậy tình cảm phức tạp không phải chỉ của người VN đối với TQ mà cả phía TQ đối với VN nữa. Rõ ràng đó là cuộc chiến do Đặng Tiểu Bình phát động, nhưng nhiều người TQ vẫn tin đó là cuộc "phản kích tự vệ"(!). Thêm vào đó, quan hệ kinh tế Việt -Trung phát triển một chiều cũng gây lo ngại và tạo tình cảm bất tín của VN đối với hàng nhập ào ạt từ TQ, đối với hành vi của thương nhân, doanh nghiệp TQ tại VN. Nhưng người TQ không hiểu sự tình cho rằng tình cảm bất tín đó là do người VN vốn không ưa TQ và quên ơn TQ đã giúp VN trong quá trình giành độc lập.

Các trí thức tham gia chương trình đối thoại Việt-Trung.
Ai cũng có thể nhận thấy tình hình này rất bất lợi cho cả hai nước, nhưng đặc biệt là đối với VN, một nước nhỏ và yếu hơn. Đáng lo hơn nữa là nhiều vấn đề do lịch sử để lại, không dễ giải quyết một sớm một chiều, ảnh hưởng lâu dài đến con đường phát triển của VN. VN vừa phải củng cố nội lực, tranh thủ sức mạnh của thời đại, vừa phải cố gắng xây dựng quan hệ hữu nghị lâu dài với nước láng giềng lớn mạnh này trên cơ sở tương kính, tin tưởng lẫn nhau. Đặc biệt sự tương kính, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau phải bén rễ trong lòng của các tầng lớp dân chúng.
Từ nhận định đó tôi chợt nghĩ đến sự cần thiết phải có đối thoại giữa trí thức VN và TQ với hy vọng là qua các cuộc đối thoại, trí thức hai nước sẽ hiểu biết, tin tưởng nhau hơn và họ sẽ tác động tích cực đến các tầng lớp dân chúng khác. Tôi nghĩ đã gọi là trí thức thì, ngoài trình độ hiểu biết, phải khách quan, khoa học, trung thực và có tinh thần xây dựng, có trách nhiệm với xã hội. Do đó đối thoại giữa các trí thức hy vọng mang lại kết quả tốt.
Nhà báo Thu Hà: Vâng, có lẽ ý tưởng này thiết thực trong bối cảnh giữa hai quốc gia láng giềng đang còn nhiều điểm khúc mắc. Xin được hỏi, về phía các học giả Trung Quốc và quốc tế họ hưởng ứng thế nào với sáng kiến của GS?
GS. Trần Văn Thọ: Tôi cho rằng, các cuộc đối thoại như thế này giúp ta hiểu biết hơn về suy nghĩ của một số trí thức TQ (và VN), đồng thời gợi mở một số vấn đề VN cần quan tâm trong quá trình cải thiện quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Rất may là ở Đại học Wvaseda, nơi tôi đang giảng dạy có giáo sư Lưu Kiệt, chuyên về sử cận đại, người Trung Quốc, phóng khoáng và có tinh thần trách nhiệm với công việc chung. Giáo sư Lưu Kiệt cũng thấy ý nghĩa của chương trình đối thoại Việt-Trung và đồng ý đứng tên chung trong dự án này. Bước tiếp theo, tôi viết thư cho Giám đốc của Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản, đề nghị ông ủng hộ chương trình này.  Rất mừng là ông đã đánh giá cao ý tưởng và đồng ý đưa dự án vào chương trình tài trợ cho tài khóa 2011, nếu kết quả tốt sẽ tài trợ cho tài khóa 2012.
Từ mùa hè năm ngoái đến nay hội nghị trù bị và hội nghị chính thức lần thứ nhất đã được tổ chức tại Tokyo. Chúng tôi định các hội nghị chính thức tiếp theo sẽ tổ chức tại Trung Quốc và Việt Nam. Chúng tôi cũng dự định kết quả các cuộc đối thoại sẽ in thành sách bằng tiếng Việt và tiếng Trung và phổ biến rộng rãi tại hai nước. Dự định là như vậy nhưng chưa biết sẽ thực hiện được tới đâu vì còn phụ thuộc vào ngân sách và một số yếu tố khác.
Quan hệ Việt-Trung thời phong kiến: Nhân và trí là quan trọng
Nhà báo Thu Hà: Nhìn lại các cuộc đối thoại, giáo sư thấy ý kiến hai bên có gì đặc biệt? Trước hết nói về quan hệ hai nước từ thời xưa có điểm gì đáng chú ý?
GS. Trần Văn Thọ: Chúng tôi cùng nhìn lại mối quan hệ giữa hai nước cả trong quá khứ và hiện tại. Nhìn chung, về quan hệ Việt-Trung thời phong kiến, ý kiến hai bên không khác nhiều, ngoài phần báo cáo về nội dung sách giáo khoa lịch sử của phía VN là có gây tranh luận. Trong các bản báo cáo đặc biệt có một số nội dung đối với tôi khá mới và thú vị...
Nhà báo Thu Hà: Điểm mới và thú vị ông tìm thấy trong các cuộc đối thoại này là gì ạ?
GS. Trần Văn Thọ: Giáo sư Bộ Bình (Bu Ping) của Viện Khoa học xã hội TQ trong bản báo cáo tại hội nghị trù bị năm ngoái nhấn mạnh là trong các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, vì nhiều nguyên nhân đã phát sinh chiến tranh giữa hai nước nhưng đó chỉ là những giai đoạn rất ngắn.
Ông lấy một ví dụ điển hình là trong chiến tranh năm 1789 mà ông gọi là Chiến tranh Thanh Nguyễn, Tôn Sĩ Nghị từ lúc cho quân xuất phát tiến qua VN đến khi bại trận ở Thăng Long chỉ có 70 ngày. Theo ông, hầu hết thời gian từ khi Đinh Bộ Lĩnh lập ra nước Đại Cồ Việt (968) với tư cách là quốc gia độc lập đến nay, dân tộc hai nước sống trong hòa bình, giao lưu hữu hảo là chính, tuy quan hệ có tính cách giữa nước lớn và nước nhỏ, biểu hiện bằng sách phong và triều cống. Và sự gắn bó ấy đã phát triển lên cao vào thời đại hai bên cùng tranh đấu chống thực dân và đế quốc. Ông còn nhấn mạnh là "Tình hữu nghị gắn bó hai dân tộc được nhuộm bằng máu trong đấu tranh, nhân dân hai nước và con cháu sau này phải giữ gìn mãi mãi". Tôi nghĩ những trí thức như giáo sư Bộ Bình rất có tinh thần xây dựng và thực sự mong hai nước ngày càng có quan hệ tốt.
Về sách phong và triều cống, bản báo cáo của Phó giáo sư Nguyễn Minh Tường (Viện Khoa học xã hội VN) cũng đưa ra mấy chi tiết mới. Theo giáo sư Tường, từ thời Đinh Tiên Hoàng (cụ thể là từ năm 970) cho đến năm 1225, chưa có triều cống mà chỉ là sính (sính lễ). Chế độ triều cống chỉ chính thức bắt đầu từ năm 1225 (thời Trần Thái Tông), nhưng cũng không được thực hiện nghiêm ngặt, lúc có lúc không. Chỉ từ thời nhà Lê, bắt đầu năm 1428, mới thực sự có triều cống theo đúng như khái niệm đó quy định (chế độ triều cống này chấm dứt năm 1884).
"Sính" là quà thăm hỏi, không định kỳ hạn, không bắt buộc, thường được tiến hành khi hai bên muốn giao hảo thân thiết, còn "Cống là thuế, là phải nộp những sản vật quý như vàng, bạc, sừng tê, ngà voi... cho các nước lớn mạnh, có tính chất bắt buộc". Nhưng trong sử TQ thì không phân biệt hai khái niệm sính và cống. Trong giai đoạn VN cho là chỉ có "sính" họ cũng ghi là "cống". Về giai đoạn "cống", giáo sư Tường có nhận định thêm là "Cho dù phải cầu phong và triều cống, cho dù Trung Quốc có quyền sách phong cho Việt Nam, nhưng đó chỉ là hình thức nghi lễ ngoại giao, trong thực tế, ông vua Việt Nam vẫn toàn quyền cai trị đất nước mình".
Rất tiếc là tôi vẫn chưa rõ tại sao VN chỉ thực sự thực hiện triều cống nghiêm túc từ thời nhà Lê. Trong quan hệ Việt Trung, giai đoạn 970-1428 khác với giai đoạn sau như thế nào. Tôi định có dịp sẽ hỏi thêm giáo sư Nguyễn Minh Tường.
Nhà báo Thu Hà: Ôn lại lịch sử thời xưa có rút ra được bài học gì cho ngày nay không, thưa giáo sư?
"Nước lớn phải lấy chữ nhân để đối xử với nước nhỏ, với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không áp đặt. Nước nhỏ thì dùng trí để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, xem nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng và có những lãnh đạo tài trí".
GS. Trần Văn Thọ
GS. Trần Văn Thọ: Như tôi đã nói, về quan hệ hai nước thời phong kiến hai bên không khác nhiều. Đặc biệt hai bên có vẻ nhất trí ở tư tưởng của Mạnh Tử về chữ "nhân" và chữ "trí" (hiểu theo ý rộng hơn nguyên nghĩa) và đây là bài học ngày nay nên tham khảo.
Nước lớn phải lấy chữ nhân để đối xử với nước nhỏ, với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không áp đặt. Nước nhỏ thì dùng trí để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, xem nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng và có những lãnh đạo tài trí. Thái độ ấy của nước lớn và nước nhỏ là điều kiện để thiên hạ thái bình và để có quan hệ hữu hảo giữa hai nước. Văn cảnh này liên tưởng đến một câu chuyện thú vị trong bản báo cáo của giáo sư Tường kể về thái độ của Hoàng đế Càn Long nhà Thanh đối với vua Quang Trung. Nhờ tài trí mà Quang Trung được Càn Long rất nể trọng đến nỗi biết Quang Trung không đích thân sang chầu nhà Thanh mà đưa người khác giả mình sang TQ, Càn Long cũng làm ngơ.
Bản báo cáo của phó giáo sư Đào Tố Uyên (Đại học Sư phạm Hà Nội) về sách giáo khoa lịch sử VN là gây tranh cãi nhiều nhất. Giáo sư Uyên giới thiệu những nội dung chính trong giáo trình ở bậc đại học, cao đẳng và sách giáo khoa phổ thông, liên quan đến quan hệ VN-TQ từ thời cổ trung đại đến cuối thế kỷ 19 và nhấn mạnh là tuy bị phương Bắc xâm lược nhiều lần, VN vẫn giữ được độc lập, trong các thời kỳ bị TQ đô hộ, nhân dân VN vẫn liên tục đấu tranh giành độc lập và chống đồng hóa của phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên, một giáo sư Nhật đã bình luận là bản báo cáo thiếu phần nói về những mặt tích cực trong quan hệ Việt-Trung, trong đó VN đã du nhập văn hóa, tư tưởng, ngôn ngữ từ TQ mà so với những thời kỳ có chiến tranh, quan hệ mang lại hiệu quả tốt cho việc dựng nước của VN dài hơn nhiều.
Ý kiến của giáo sư Nhật được phía TQ đồng tình. Một học giả TQ còn nói thêm là trong các cuộc chiến tranh không phải lúc nào TQ cũng xâm lược VN, chẳng hạn Lý Thường Kiệt đã đem quân sang Quảng Tây hồi thế kỷ 11. Đúng là do phải cổ võ tinh thần yêu nước, nỗ lực giữ nước trong giai đoạn chống ngoại xâm, sách giáo khoa lịch sử VN có khuynh hướng nhấn mạnh những nội dung như bản báo cáo nói trên.
Trong phần thảo luận, giáo sư Uyên có bổ túc là VN và TQ là hai nước láng giềng nên sự giao lưu và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau là điều đương nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, để thực hiện chính sách đồng hóa VN, TQ đã mở trường dạy học chữ Hán và truyền bá tư tưởng Nho giáo. Nhưng với tinh thần tự cường dân tộc, nhân dân Việt Nam đã tiếp thu một cách chủ động và sáng tạo, chẳng hạn dùng chữ Hán để Việt hóa âm đọc cho dễ nhớ, dễ học. Từ chữ Hán VN cũng sáng tạo ra chữ nôm và sử dụng chữ Hán để sáng tác các tác phẩm văn học, viết và xây dựng các công trình văn hóa như các tác phẩm sử học, y học, hệ thống văn bia bằng chữ Hán...
Cũng trong phần thảo luận này, giáo sư Nguyễn Quang Ngọc ((Đại học Quốc gia Hà nội) có phát biểu là, vì VN bị ngoại xâm nhiều nên phải nhấn mạnh nỗ lực giữ nước trong sách giáo khoa lịch sử, và không riêng gì TQ, lịch sử VN cũng nói nhiều đến các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Theo phát biểu của giáo sư Đỗ Tiến Sâm (Viện Khoa học Xã hội VN) ở hội nghị trù bị năm ngoái, trong quá khứ, VN đã phải đương đầu với 16 cuộc chiến, trong đó 12 cuộc là do các triều đại phong kiến TQ gây ra.
Nói chung trao đổi ý kiến về quan hệ hai nước thời xa xưa cũng rất hữu ích. Đặc biệt chữ "nhân" và chữ "trí" được nhiều người nhắc lại nhiều lần.
Thu Hà

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Cần hết sức thận trọng khi sử dụng truyền thuyết dân gian như một nguồn sử liệu

  GS.TSKH Vũ Minh Giang *
Cần hết sức thận trọng khi sử dụng truyền thuyết dân gian như một nguồn sử liệu

Nhân đọc bài Diễn văn khai mạc tại Lễ dâng hương tưởng niệm Bà Cao tổ Vũ Thị Thục Đại tướng Đông Nhung Bát nạn thời đại Hai Bà Trưng của ông Vũ Ngọc Phương.






GS.TSKH Vũ Minh Giang *
Lịch sử là tất cả những gì đã diễn ra trong quá khứ. Đó là thực thể khách quan cực kỳ phức tạp và là đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử. Để tái tạo lại quá khứ, qua đó tìm hiểu các quy luật của lịch sử,  nhà sử học phải có trong tay các nguồn sử liệu và phương pháp phê phán, phân tích và đánh giá giá trị của chúng. Quá khứ để lại dấu vết dưới rất nhiều hình thức khác nhau nên việc mở rộng các nguồn sử liệu là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh ấy, truyền thuyết dân gian dưới mọi dạng thức cũng có thể coi là một nguồn sử liệu. Tuy nhiên, bất cứ ai khi tiến hành nghiên cứu lịch sử phải nắm vững và tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Kết quả nghiên cứu, cho dù nghiêm túc đến đâu, cũng chỉ là nhận thức lịch sử chứ không phải là lịch sử. Điều đó có nghĩa là người nghiên cứu không bao giờ được phép đồng nhất ý kiến của mình với chân lý khách quan để vội vã đưa ra những nhận định chủ quan.
- Tất cả mọi nguồn sử liệu, cho dù đáng tin cậy đến mấy, cũng cần được phê phán, phân tích và xử lý theo những phương pháp khoa học nghiêm ngặt và luôn phải được phối kiểm bằng nhiều nguồn khác nhau.
- Trong số các nguồn sử liệu, truyền thuyết dân gian, thần tích, thần phả… là loại phức tạp và ít đáng tin cậy vì tính chất tuỳ biến, khó kiểm chứng nên thường chỉ được dùng như những gợi ý cho những giả thuyết hay giúp nhà nghiên cứu có hình dung nào đó về các sự kiện hay thời đại liên quan. Nó hầu như không giá trị cho việc khẳng định tính xác thực của những sự kiện cụ thể.
Những điều trên đây tuy rất sơ đẳng, nhưng đối với công việc nghiên cứu lịch sử nghiêm túc phải được coi là những nguyên tắc cơ bản.
Yêu lịch sử là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, nên hiện tượng ngày càng có nhiều người tìm hiểu lịch sử, biên soạn lịch sử địa phương hoặc viết về một thời kỳ, một  nhân vật mình yêu thích là tín hiệu đáng mừng và rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó lại đang có một trào lưu rất đáng lo ngại. Đó là sự xuất hiện ngày càng phổ biến những người nghiên cứu nghiệp dư viết rồi phát tán những tài liệu nói về sự kiện này, nhân vật lịch sử kia một cách hết sức tuỳ tiện, không tuân thủ bất cứ một nguyên tắc nào. Nhiều bài viết chỉ dựa vào truyền thuyết hay những tài liệu thành văn nhưng được biên soạn từ truyền thuyết (thần phả, thần tích…) mà cũng không cần biết truyền thuyết ấy xuất hiện khi nào, giá trị sử liệu đến đâu. Nguy hiểm hơn còn có những tài liệu loại đó được sử dụng làm căn cứ để đi tới những quyết định (tôn vinh, đề cao một nhân vật nào đó, đầu tư một khoản kinh phí nào đó vào việc xây dựng di tích, hoặc trái lại,  để đả kích ai đó…).
Từ lâu tôi đã có ý định nói  về vấn đề này nhưng chưa có dịp, nay nhân được đọc bài Diễn văn khai mạc tại “Lễ dâng hương tưởng niệm Bà Cao tổ Vũ Thị Thục Đại tướng Đông Nhung Bát nạn thời đại Hai Bà Trưng” [1] của ông Vũ Ngọc Phương, Chủ tịch Trung ương Hội KHPTNNL – NTVN thì thấy không thể trì hoãn thêm được nữa nên xin phát biểu một số điều để biểu thị quan điểm của mình.
GS.TSKH Vũ Minh Giang
Điều đầu tiên cần phải nói là trong bài diễn văn của mình, ông Vũ Ngọc Phương đã trình bày tiểu sử chi tiết của một nhân vật được cho là cách đây gần hai nghìn năm với sự xác quyết mặc nhiên những chi tiết từ quê quán, tên họ, năm sinh, năm mất cùng gia thế và sự nghiệp. Tất cả những chi tiết đó tác giả chỉ bắt đầu từ một mệnh đề giản đơn: Lịch sử và Thần phả còn ghi lại ” mà không viện dẫn ra bất cứ một bộ sử nào, bản thần phả nào. Với hiểu biết của mình, tôi chưa từng thấy những chi tiết trong bài viết nói trên được viết trong bất kỳ bộ sử nào, mà chỉ được nói tới trong thần tích do người đời sau, rất xa với sự kiện biên soạn. Tuy không nói rõ, nhưng có thể dễ dàng nhận ra tài liệu chính mà tác giả dựa vào là một bản sao thần tích được biên soạn trên cơ sở những truyền thuyết dân gian mà thôi [2]. Theo tài liệu đó, nhân vật Đông Nhung Bát nạn, một đại tướng thời hai Bà Trưng có tên là Vũ Thị Thục. Cũng sẽ chẳng có gì để  nói nhiều nếu tác giả chỉ dừng ở đó, bởi hiện tượng đồng nhất ý của mình với nội dung một thần tích nào đó hiện nay đã trở nên quá phổ biến. Nhưng điều đáng nói là tác giả đã tôn bà lên làm Cao Tổ họ Vũ/Võ Việt Nam mà hậu duệ là tất cả những danh nhân kiệt kiệt xuất họ Vũ/Võ, trong đó cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Khoan hãy nói đến những chi tiết khác của bản thần tích, hãy bắt đầu từ việc phân tích tính xác thực tên gọi của bà.
Không có gì phải nghi ngờ, hệ thống tên, họ mà người Việt đang sử dụng rộng rãi hiện nay, là sự mô phỏng hệ thống tên họ của người Hán. Về cơ bản hệ thống đó có ba yếu tố: Họ (chỉ gốc tích gia tộc theo phụ hệ), tên đệm (chỉ chi phái, giới tính hoặc sau này biến hoá với nhiều chức năng khác) và tên gọi (danh xưng phân biệt các cá thể với nhau). Cả ba yếu tố này đều sử dụng âm Hán – Việt và có thể dùng chữ Hán để ghi. Đây là hiện tượng rất bình thường của quá trình tiếp biến văn hoá, nhưng một hệ thống hoàn chỉnh như vậy khó có thể hình thành trong cộng đồng người Việt trong một thời gian ngắn và chưa thể xuất hiện vào thời hai Bà Trưng vì những lý do sau đây:
1. Nước Âu Lạc bị mất chủ quyền từ năm 179 TCN, nhưng trong suốt một thời gian dài, người Việt vẫn sống theo phong tục riêng của mình. Thậm chí cho đến tận sau khi khời nghĩa Hai Bà bị đàn áp vào năm 43 SCN, vẫn còn tồn tại chế độ Lạc tướng (người Việt đứng đầu các huyện). Làng xã vẫn bầu trời riêng của người Việt. Phải đến đầu thế kỷ thứ 3, khi Sĩ Nhiếp sang làm Thứ sử Giao châu, những ảnh hưởng văn hoá Hán tới người Việt, trong đó có hệ thống văn tự, phong tục tập quán và quan hệ xã hội, mới bắt đầu trở nên sâu rộng. Rất có thể hệ thống tên học kiểu Hán lúc này mới trở nên phổ biến. Điều này đã được nhiều học giả nói tới.
2. Trong các cổ thư Trung Quốc biên soạn sau thời kỳ này đến một và thế kỷ như Hậu Hán thư (TK 5), Thuỷ kinh chú (TK 6) cũng chưa thấy xuất hiện một người Việt nào có tên họ đầy đủ như vậy. Ngay cả những nhân vật nổi tiếng như hai vợ chồng Bà Trưng các sách này cũng chỉ chép tên, chứ không có họ.  Việc một số sách sử chép tên chồng Bà Trưng là Thi Sách, dẫn tới cách  hiểu ông họ Thi, tên Sách chỉ là một sự lầm lẫn [3] 
3. Hệ thống tên họ hoàn chỉnh nêu trên không chỉ là sự ảnh hưởng về văn hoá mà còn là sự phản ánh sự hiện hữu của chế độ phụ hệ gia trưởng, theo đó tất cả các người con đều phải theo họ cha. Điều này khó có thể đã xuất hiện ở thời hai Bà Trưng, khi mà nhiều tài liệu cho thấy chế độ mẫu hệ còn đang có ảnh hưởng rất mạnh.
Trở lại nhân vật Đại tướng Đông Nhung Bát nạn (hay Bát Nàn, Bát Não) mà ông Phương hoàn toàn tin tưởng thần tích để cho rằng tên thật là Vũ Thị Thục, tôi xin có ý kiến như sau: Tên của bà xướng lên theo âm Hán Việt và có thể diễn tả bằng ba chữ Hán  (武氏淑). Điều này khiến ta nghĩ ngay tới việc người sau đưa vào. Hơn thế, tên, họ này không thấy có ở bất kỳ một bộ sử nào ngoài thần tích. Kinh nghiệm sử dụng thần tích của các nhà nghiên cứu lịch sử, trong đó có cá nhân tôi, luôn luôn chỉ coi là những gợi ý và phải xử lý hết sức cẩn trọng. Giống như nhiều thần tích về các tướng lĩnh khác thời Hai Bà Trưng, những thông tin giúp ích cho việc nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng ở những gợi ý về phạm vi ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa, về vai trò to lớn của phụ nữ và tinh thần quật cường, dũng cảm của quân và dân ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm. Xa hơn nữa, phối kiểm với các tư liệu khác có thể xác định một cách tương đối về quê quán của những nhân vật huyền thoại. Những chi tiết không thể kiểm chứng thì thường không đáng tin cậy. Riêng về tên họ, thì như trên đã nói, không chỉ thiếu căn cứ mà còn không phù hợp với hoàn cảnh lịch sử.
Chính vì những lẽ trên, nhân vật được chép trong thần tích miếu xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ và ở làng Tiên La, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, được cho là [4] Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn phải coi là một sản phẩm của truyền thuyết dân gian, có thể phản ánh một phần nào đó sự thật lịch sử chứ không phải là nhân vật lịch sử. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể trân trọng thờ cúng, thậm chí tạc tượng với hình hài tưởng tượng để tưởng niệm như một biểu tượng, nhưng không thể khẳng định một cách quả quyết về tên họ cùng những chi tiết không thể kiểm chứng khác như một nhân vật lịc sử đích thực.
Hướng về cội nguồn là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc cần được duy trì và phát huy. Trong ý nghĩa đó tổ chức dòng họ để phát huy những nết đẹp của trăm họ, góp phần củng cố sức mạnh cộng đồng dân tộc là việc nên làm. Tuy nhiên, nếu không có cách nhìn đúng đắn thì rất dễ nảy sinh những hệ quả trái chiều do thói cục bộ, ganh ghé, tranh giành ảnh hưởng- những hạn chế vốn có của quan hệ dòng họ. Khi tổ chức dòng họ đã mở rộng trên quy mô toàn quốc thì sự tự nguyện của mỗi người, sự đồng thuận của cộng đồng phải được coi là nguyên tắc tối thượng.
Vả lại, việc chỉ căn cứ vào những tài liệu rất không đáng tin cậy, không có bất kỳ một sự phân tích nào và không có một sự thảo luận, trao đổi cần thiết, để khẳng định một nhân vật nào đó làm Cao Tổ của cả một dòng họ lớn như họ Vũ/Võ, một dòng họ được tổ chức khá quy củ, chặt chẽ và đang phát huy những mặt tích cực với xã hội là điều cần hết sức thận trọng.
----------------------------------------------------------------------------------------
* GS.TSKH Vũ Minh Giang - Phó Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng KH&ĐT Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hoá Quốc gia, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Liên ngành Lịch sử, Khảo cổ, Nhân học, Uỷ viên Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, Uỷ viên Hội đồng Lý luận TW, uỷ viên Hội đồng Chính sách KH&CN Quốc gia.
[1]  http://vanhac.org/03/thanh-mau-cao-to-vu-thi-thuc-nuong.html

[2] Tuy không dẫn cụ thể nhưng có thể tác giả đã dựa vào  thần tích làng Tiên La, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, sao lại thần tích thờ miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, nay thuộc Vĩnh Phú (thần tích do danh thần thời hậu lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn).

[3] Sự lầm lẫn này bắt đầu từ Thái tử Lý Hiền nhà Đường. Nhưng  sau này đã được học giả Huệ Đống nhà Thanh đính chính lại. Đặt trong toàn văn câu “Chu Diên lạc tướng tử danh Thi sáchMê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê"  phải dịch là con Lạc tướng Chu Diên tên là Thi hỏi con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Chữ sách () ở đây nghĩa là hỏi (vợ), cầu (hôn) chứ không phải tên.
[4] Chúng tôi sử dụng cụm từ “được cho là” vì phần lớn các thần tích còn lại về sau này đều có niên đại văn bản rất muộn, nhưng đều nhất loạt ghi là do Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn. Xét về mặt văn bản học, rất khó tin rằng Nguyễn Bính đã biên soạn một số lượng thần tích lớn như vậy trong cùng một khoảng thời gian. 
GS.TSKH Vũ Minh Giang

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

LAN MAN VỀ TRUYỀN THỐNG HỖN DUNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT


Bùi Trọng Hiền
(Đã đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số tháng 5-6-7/2012 -Bản gốc)

 

1-Xưa...
          Từ thời xưa, tục thờ thần, thờ thánh của người Việt đã thể hiện rõ bản chất tín ngưỡng đa thần bản địa. Trong lịch sử, ông cha ta đã bảo lưu rất nhiều hình thái tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Sẽ thấy sự hiện diện của những hình thái sơ khai từ thời nguyên thủy như tín ngưỡng vạn vật hữu linh, các tín ngưỡng thờ sinh thực khí với hành vi giao phối, các tín ngưỡng thờ thần thiên nhiên như Tứ pháp (mây, mưa, sấm, chớp), tín ngưỡng Tứ phủ, tín ngưỡng thờ động vật, thờ nhân thần, thờ cúng tổ tiên... Với hệ thống nhân thần, trong tín ngưỡng người Việt, những nhân vật được thờ phụng thường là các vị anh hùng có công với nước, giúp dân khai hoang lập ấp, hay những nhân vật có công dựng nghề khởi nghiệp. Bên cạnh đó, các vị thần nhiều khi cũng chỉ là những nhân vật hết sức bình thường, thậm chí tầm thường như một người chết bất đắc kỳ tử, một tay ăn trộm, tướng cướp hay kẻ ăn mày, người hót phân... Những nhân thần dạng này hầu hết giống nhau ở chỗ đều... chết vào “giờ thiêng” nên linh ứng với cộng đồng, khiến cho người dân khiếp sợ mà lập đền thờ phụng. Về sau, người Việt du nhập thêm những tôn giáo bên ngoài như Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo.., bên cạnh đó, cũng tiếp tục sáng tạo thêm những tôn giáo mới dựa trên sự dung hợp hay cải biên các tôn giáo du nhập như đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo... Với những tín ngưỡng dân gian bản địa, hành vi cúng lễ bao giờ cũng mang tính thực dụng cao. Người ta cúng cho thần thánh con trâu, con lợn, con gà, vật phẩm này nọ... có nghĩa mong muốn đấng siêu nhiên phải phù trợ cho cộng đồng mùa màng bội thu, tài lộc may mắn... Động cơ vụ lợi của con người trong tín ngưỡng có lẽ cần được xem là đặc điểm “xưa như trái đất”. Chính vì thế, bản thân nhiều tôn giáo ngoại nhập cũng dần dà được người Việt bản địa hóa với sự đan xen pha trộn đủ loại, đủ mầu sắc khác nhau, bất kể bản chất những tín ngưỡng tôn giáo có mâu thuẫn với nhau như thế nào.
          Nhìn chung, người Việt quan niệm rằng, con người sau khi chết đi sẽ tồn tại mãi mãi với sự hiện diện của linh hồn bất diệt thông qua hệ thống mồ mả chứa đựng di hài, xương cốt. Với quan niệm đó, tục thờ cúng tổ tiên ông bà cùng việc chăm sóc mộ phần được xem như một tín ngưỡng mang tính bản địa, thể hiện lòng tôn kính với người đã khuất, đạo lý uống nước nhớ nguồn. Ở đây, thế giới linh hồn người chết luôn hiện hữu song hành với thế giới người sống, có thể tác động gián tiếp hoặc trực tiếp lên mỗi thân phận đời người. Điều đó có nghĩa các thế lực linh hồn có thể phù trợ hoặc gây hại với con người trần thế. Khái niệm “mồ yên mả đẹp” là một trong những biểu hiện quan trọng, thể hiện mối quan hệ qua lại tốt đẹp giữa trần gian và cõi âm. Bởi vậy, người ta cho rằng mọi tác động của thế lực các linh hồn như thế nào sẽ tùy thuộc vào phép tắc cúng bái, ứng xử của người còn sống.

Phần I:
          Song song với việc thờ cúng tổ tiên ông bà, tục thờ âm hồn nói chung còn biểu hiện rõ ở việc người ta có thể lập những ngôi miếu nhỏ để thờ những người chết bất đắc kỳ tử nơi đầu đường xó chợ. Với niềm tin bất kỳ vong hồn nào cũng có thể tác động lên thế giới thực tại, nhiều địa phương miền Trung còn có tục cúng vong trước cửa nhà mỗi tháng đôi lần vào tối mười tư và ba mươi Âm lịch. Xem ra bất cứ ai chết đi cũng đều có sức mạnh siêu nhiên gây ảnh hưởng đến bất kể người nào còn sống trên khắp thế gian. Hẳn điều này lý giải tại sao người Việt có thể thờ một tay kẻ cướp, một gã ăn trộm, một người ăn mày... làm thành hoàng làng bảo trợ cho cộng đồng làng xã. Như đã nói, tất cả các “thánh nhân” đó hầu hết đều giống nhau ở chỗ chết gặp giờ thiêng, nên được xem như hiển linh, có thể gây họa hoặc ban phúc lộc cho cộng đồng sở tại. Ở nhiều nơi, trải theo thời gian, việc thờ những “nhân thần” như vậy có lẽ không lấy gì làm hãnh diện cho lắm nên một mặt người ta đã phối thờ thêm những vị thánh mới oai phong hơn, thường là những nhân vật lịch sử có công với nước, một mặt người ta đã ngụy tạo thần tích, tức không ngại “sáng tạo sự tích” để “oai phong hóa” vị thần được thờ phụng. Đây là chuyện dở khóc dở cười của nhiều nhà nghiên cứu khi cố gắng tiếp cận ngọn nguồn tín ngưỡng dân gian nơi đình, đền làng Việt. Sẽ không thấy làm lạ khi ngày nay có rất nhiều vị thần được gán cho thời đại vua Hùng. Theo những nguồn tin không chính thức, việc “chạy thần tích” đã xảy ra từ thời Pháp thuộc. Khi Viện Viễn Đông Bác Cổ tiến hành rà soát thống kê sưu tầm các thần tích tín ngưỡng người Việt, có những quan lại địa phương đã gửi lên Hà Nội những bản thần tích mới được “sáng tạo”, cốt sao tôn vinh được danh tính vị thành hoàng làng sở tại. Thế nên hiện tượng thật giả lẫn lộn là cái mà người thời nay mặc nhiên phải tiếp nhận thờ phụng.


          Trong hệ triết thuyết của mình, Phật giáo quan niệm sự sống là một chu kỳ quay vòng theo đơn vị kiếp (một đời sinh/tử). Mọi thân phận sướng/khổ của con người trần thế đều là hệ quả của nguyên nhân tương ứng, gọi là gieo nhân nào thì mọc quả nấy. NHÂN có thể từ kiếp trước hoặc kiếp hiện tại. QUẢ nếu không lĩnh đủ ngay trong đời thì sẽ báo ứng vào kiếp sau. Theo giáo lý nhà Phật, con người sau khi chết sẽ được Thập điện Diêm Vương (do Địa tạng Vương Bồ tát cai quản) xét xử công/tội trong vòng 7 tuần ứng với 7 cửa ngục. Thế nên mới có tục cúng 49 ngày, đưa vong lên chùa để sư sãi cầu cho linh hồn siêu thoát. Trên quan niệm luân hồi- nhân quả, tới kỳ 49 ngày, đại thể các linh hồn sẽ thuộc quyền quản lý của những quan Diêm vương. Họ sẽ soi xét công minh mọi điều lớn nhỏ mà người ta đã “tạo nghiệp” lúc sinh thời để quyết định sự đầu thai như thế nào, làm người sướng/ khổ, làm súc sinh, hoặc giả đầy xuống địa ngục chịu những hình phạt nặng nề. Với thuyết luân hồi- nhân quả, rõ ràng Phật giáo chỉ ra tính chu kỳ vô hạn của sự tồn tại. Sự bất diệt xem ra chỉ có thể giành cho những ai có chân tu truyền kiếp, sẽ được siêu thoát khỏi vòng luân hồi để lên cõi Niết bàn. Phần còn lại, cứ xét công/tội mà quay vòng. Từ đó, sẽ thấy theo giáo lý Phật pháp, chẳng thể có linh hồn nào mà thoát được phiên tòa đại hình của Thập điện Diêm Vương. Đây chính là điểm mâu thuẫn cơ bản giữa quan niệm Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng vong hồn của người Việt, không thể lý giải dung hòa. Giả sử ông bà, cha mẹ... mất đi, nếu theo quan niệm Phật giáo, mọi linh hồn tất phải chuyển vận theo vòng luân hồi, kiếp này sang kiếp khác. Mọi công/tội, thiện/ác, tốt/xấu, hay/dở của từng cá thể tất dẫn đến việc linh hồn đó sẽ biến đổi sang kiếp sau như thế nào... Đứng trên giáo lý nhà Phật, với quyền năng Phật pháp vô biên, các quan Thập điện Diêm Vương hẳn sẽ không thể bỏ sót một linh hồn nào(?). Theo đó, sự tồn tại của hệ thống mồ mả người chết trên cõi dương gian sẽ chỉ có giá trị cát bụi đúng nghĩa. Và, sẽ chẳng có sự hiện diện vĩnh hằng của hệ thống người chết, có nghĩa cũng chẳng có tổ tiên ông bà hay vong hồn nào có thể tồn tại song hành mà phù hộ hay giáng họa cho người còn sống. Ở đây, dù có sự mâu thuẫn rõ ràng đến vậy, nhưng trải qua nghìn đời từ khi dung nạp Phật giáo vào đời sống tín ngưỡng xã hội, người Việt vẫn duy trì song song cả 2 hệ tư tưởng nhân sinh quan, để rồi đan xen, trộn lẫn thành một tập hợp mang tín hỗn dung tín ngưỡng, in đậm sắc thái hồn nhiên bao đời.


          Trong sự dung hợp đó, từ ngàn xưa, giới thầy cúng trong dân gian đã có mối quan hệ mật thiết với các chư tăng nơi cửa thiền. Họ cùng nhau làm chủ những khoa cúng bao chứa hệ thống âm nhạc nghi lễ đặc sắc của Phật giáo. Đó là các Khoa cúng Mông Sơn (còn gọi Mông Sơn thí thực hay Đàn chẩn tế), Khoa cúng tiếp linh, Khoa cúng triệu linh, Khoa cúng chúc thực, Khoa phát tấu, Khoa cúng đàn kết (còn gọi Giải oan cắt kết)... Những khoa cúng này đều có mục đích chung là cầu siêu cho các linh hồn được giải thoát, nhân sự gia chủ được bình an. Điều đó có nghĩa các lễ thức được sáng tạo nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Phật giáo với đời sống tâm linh trong dân gian, mà cụ thể là các nghi thức tang ma, vong hồn, mồ mả... Có giả thuyết cho rằng, lễ cầu siêu bắt nguồn từ các tông phái Phật giáo chịu ảnh hưởng của Đạo giáo và văn hóa Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, tương truyền, một trong những người có công lớn góp phần xây dựng các khoa cúng nói trên chính là thiền sư Huyền Quang (1254-1334)- Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm. Ở góc độ nghệ thuật, các khoa cúng chính là nơi hội tụ toàn bộ các giá trị tinh hoa của ca- múa- nhạc Phật giáo Việt Nam. Với hệ kỹ thuật cũng như phương pháp xây dựng âm điệu ở trình độ cao, âm nhạc Phật giáo được xem như sánh vai cùng các thể loại chuyên nghiệp trong nền âm nhạc cổ truyền dân tộc. Ở đây, mọi giá trị được lưu truyền ở các lò đào tạo mang tính chuyên nghiệp thầy/trò, với mối quan hệ phối hợp, chuyển giao qua lại giữa những chư tăng cùng các thầy cúng ngoài dân gian. Có nghĩa, khi nhà chùa để thất truyền lối giọng thì phải cử các nhà sư trẻ ra ngoài học thầy cúng và ngược lại, các thầy cúng cũng có thể tìm đến chùa để trao dồi thêm tài năng, ngón nghề của mình.


          Bên cạnh Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cũng được người Việt dung nạp song hành cùng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng nhiều tín ngưỡng bản địa khác. Có điều, tùy theo quan niệm mà Phật hay Thánh sẽ đứng ở vị trí trung tâm trong tư duy tín ngưỡng. Với ông thầy cúng, thầy phù thủy thì dù thế nào, Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng Tam Thánh... tất sẽ đứng ở vị trí chính thần gây ảnh hưởng mạnh nhất. Với những con nhang đệ tử Tứ phủ, chính thần lại là hệ thống các Mẫu, Quan, Chầu, Hoàng... Còn với những dân đen, tùy vào từng trường hợp cụ thể trong cuộc sống, họ sẽ trở nên “linh hoạt” khôn cùng để lựa chọn hình thức phù hợp giải quyết nhu cầu niềm tin tín ngưỡng với cõi vô hình. Khi thì tìm đến bàn thờ, mồ mả tổ tiên ông bà hay đơn giản những linh hồn thiêng nào đó làm chỗ dựa tâm linh, khi họ lại cầu khẩn sự giúp đỡ nơi cửa đền, cửa điện nương nhờ thánh, thần, hay mẫu, lúc họ lại tới chùa nương nhờ sự chở che của Phật pháp chính hiệu... Điều này có lẽ biểu hiện rõ nhất ở hình ảnh tam giáo đồng nguyên, có từ cách đây tới 1000 năm lịch sử.

          Từ cuối thế kỷ 17, sau khi bén rễ, Thiên chúa giáo đã nhanh chóng phát triển và lan tỏa khắp Việt Nam. Với giáo lý riêng có thể rút gọn trong 2 điều răn cơ bản (1-Kính chúa trên hết mọi sự, 2-Yêu người như yêu chính mình), tôn giáo này xác định đời người chỉ có một kiếp. Đức tin đó răn dạy con người phải sống sao cho tốt vì sẽ không có cơ hội thứ hai. Cũng tương tự như thuyết nhân- quả, Thiên chúa giáo quan niệm rằng sau khi con người chết đi, người tốt thì sẽ lên thiên đàng do Chúa cai quản, kẻ chưa sạch tội thì xuống địa ngục chờ ngày phán xét cuối cùng... Người chết thuộc về một thế giới khác biệt, không thể đón nhận hay thụ hưởng bất cứ điều gì từ người đang sống và ngược lại, cũng không thể ban phúc hay giáng họa nơi trần gian. Với đức tin đó, không tồn tại thế giới linh hồn vất vưởng tự do tự tại hoành hành thế giới loài người. Những niềm tin kiểu dạng thờ ma quỷ, ác thần, vong hồn... được xem như sự phỉ báng nhà thờ thiên chúa, và ở một chừng mực nào đó được xác định là tà giáo. Với nguyên tắc thờ phụng duy nhất Chúa, những người theo thiên chúa Giáo tất nhiên từ bỏ tục thờ cúng tổ tiên. Nhưng dần dà về sau, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ 20 trở lại đây, tục thờ cúng tổ tiên đã hiện diện trở lại ở một số cộng đồng công giáo người Việt với những quan niệm dung hợp mang tính chấp nhận hòa giải. Những giáo dân giữ tục thờ cúng tổ tiên với quan niệm mới, rằng linh hồn người thân sẽ được hưởng lợi phần nào từ việc cầu xin của người còn sống, những mong được Thiên chúa giảm/ xóa tội mà thoát khỏi vòng địa ngục trong ngày phán xét cuối cùng. Nhiều năm gần đây, ở một số địa phương, nhiều giáo dân Thiên chúa cũng đã tham dự các lễ thức ở hệ thống đền phủ thờ Mẫu, thành hoàng làng một cách không chính thức. Ở chiều ngược lại, những người ngoại đạo Thiên chúa cũng dễ dàng chấp nhận hòa đồng kỷ niệm ngày Chúa giáng sinh như một phần nghi thức trong năm của mình, sẵn lòng hòa lẫn với các giáo dân dự lễ trong các nhà thờ Thiên chúa.


          Ở đất phương Nam, từ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20, sự ra đời của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo… một lần nữa chứng minh mạnh mẽ tư tưởng hỗn dung tôn giáo tín ngưỡng của người Việt. Nhìn chung các tôn giáo mới sáng lập đều dựa trên nguyên tắc cải biên những tôn giáo lớn trong sự kết hợp với hệ tín ngưỡng bản địa, đặc biệt tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc. Trong đó, đạo Cao Đài được xem như một sự tích hợp lớn nhất, bao gồm nhiều tôn giáo tín ngưỡng Đông -Tây, kim- cổ kết hợp như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, thông linh học Tây phương... trong một chủ thuyết hợp nhất tâm linh kiểu dung hòa toàn bộ. Thế nên sẽ không thấy lạ khi gặp một tín đồ tôn giáo nào đó ở Nam Bộ vừa chắp tay- “A Di Đà Phật” rồi tiếp tục làm dấu thánh- “A Men”!

          Ở đây, nếu xét trên cái nhìn toàn cảnh, nói chung trong sự dung hợp tôn giáo ngoại lai với tín ngưỡng bản địa, thông thường người Việt chấp nhận đặt ngôi vị chư Phật lên vị trí cao nhất. Rất phổ biến thứ tự Phật- Thánh trong điện thần tâm thức tín ngưỡng. Ngay trong tín ngưỡng Tứ phủ, ngôi vị Phật Thích Ca cùng chư Phật mười phương, Phật Bà Quan Âm, Vua Đế Thích cùng các Bồ tát cũng đứng ở vị trí hàng đầu, thứ đến là Ngọc Hoàng thượng đế cùng các vị trí chủ chốt của điện thần Đạo giáo như Ngũ Nhạc Thần Vương, Nam Tào Bắc Đẩu, Nhị Thập Bát Tú.., dưới đó mới là hệ thống chính thần Tứ phủ. Với tư duy như vậy, người Việt đến cửa thiền dường như để thêm vào một chỗ nương náu, một nơi chốn chở che niềm tin tín ngưỡng, nhằm phù trợ cho cuộc sống nhọc nhằn, đầy rẫy khó khăn, tai ương trần thế. Bởi vậy, dễ hiểu vì sao người ta cũng đưa các vị thần, thánh dân tộc vào phối thờ trong chùa ở vị trí thứ yếu với kiểu “tiền Phật hậu thần” và “tiền Phật hậu Mẫu”.


          Như vậy, trong lịch sử, một mặt người Việt chấp nhận quy thuận/ dung hợp các tôn giáo ngoại lai (đáng kể nhất là Phật giáo) nhưng một mặt bảo lưu nguyên trạng quan niệm thờ cúng tổ tiên, vong hồn trong sự chấp nhận chi phối của chư Phật, thánh thần. Bằng chứng hiển nhiên là khi ai đó qua đời, người thân vẫn phải tuân thủ việc cúng giỗ khởi điểm theo kỳ chung thất (49 ngày), đưa vong lên chùa để nhà sư tụng kinh niệm Phật cầu cho linh hồn được siêu thoát. Đây cũng có thể ví như một quan niệm “trần sao âm vậy”. Khi còn sống, dù con người có tốt/xấu như thế nào nhưng khi chết đi, mấy ai dám tự tin rằng mình vô tội. Việc nương nhờ Phật pháp thông qua thiết chế chùa chiền, sư sãi với các lễ thức cúng bái, tụng kinh, đọc chú..., đàn lễ vật phẩm lớn bé... được xem như một sự cầu xin, ít nhiều mang tính chất “chạy án” trong tâm tưởng. Qua đó, người còn sống ngõ hầu hy vọng người chết được siêu thoát- có nghĩa linh hồn được đầu thai sang kiếp khác sướng hơn mà không bị đày xuống cõi địa ngục âm ty... Điều này lý giải cho sự ra đời các khoa cúng cầu siêu của nhà chùa trong sự kết hợp với thầy cúng dân gian. Như đã nói, đây là biểu hiện sống động xu hướng bản địa hóa Phật giáo theo nhu cầu tâm linh tín ngưỡng vong hồn, mồ mả... của người Việt. Mới hiểu tại sao các khoa cúng cầu siêu lại hội tụ mọi giá trị tinh hoa ca- múa- nhạc của Phật giáo. Cùng với hệ thống kinh kệ, bùa chú.., chính sức cuốn hút của nghệ thuật ở đây đã có tác dụng mạnh mẽ trong sự phủ dụ, xoa dịu nỗi đau cũng như tạo niềm tin lớn lao với thế giới người còn sống. Đó là một hệ quả tất yếu của quá trình sáng tạo, tiếp biến trong mối quan hệ cung cầu tâm linh.


          Thế nhưng, dù nương nhờ Phật pháp như vậy nhưng rút cục, người chết vẫn được lập mộ với quan niệm cõi âm vĩnh hằng có từ thời nguyên thủy. Tổ tiên thờ cúng vẫn được xem như một thế lực vô hình, có lúc tựa hồ thần thánh, sẽ tác động trực tiếp tới cuộc sống trần gian. Trong sự hỗn dung tín ngưỡng, bên cạnh Phật giáo, người ta còn cậy nhờ vai trò trung gian của Đạo giáo... cùng thuật phong thủy, bói toán... với vai trò hành lễ của các nhà sư, thầy cúng, thầy bói, thầy phù thủy, cô hồn.., ngõ hầu tác động tới thế giới tổ tiên. Xem ra đó là những mối quan hệ tưởng tượng nhằng nhịt và chồng chéo. Mới hiểu tại sao người Việt vừa đi lễ chùa cầu Phật, vừa đi lễ đền, đình, phủ, miếu cầu thánh thần, vừa cầu cúng tổ tiên ông bà nói riêng hay hệ thống những âm hồn nói chung. Điều đó có nghĩa niềm tin cổ xưa về thế giới vong hồn vĩnh hằng rút cục đã “bất chấp” thuyết luân hồi- nhân quả. Có thể nói, sự hỗn dung tín ngưỡng đầy mâu thuẫn đó tồn tại từ hàng nghìn đời nay, một mặt thể hiện dấu vết hồn nhiên mang đậm tính thực dụng nguyên thủy, nhưng mặt khác cũng thể hiện sự yếu đuối, hoặc giả dễ dãi với nhân sinh quan, vũ trụ quan trong tâm thức xã hội Việt. Điều này thể hiện rõ ở cái tâm lý “bán tín bán nghi” kiểu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, vốn rất phổ biến trong dân gian bao đời.


          Trong cộng đồng làng xã Việt Nam, họ tộc vốn được xem như một bộ phận cấu thành cơ bản. Ở góc độ tâm lý, sẽ thấy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tiền đề chi phối mạnh mẽ quan hệ gia đình, dòng tộc và kết cấu xã hội người Việt. Đặc biệt từ khi chịu ảnh hưởng của hệ tử tưởng Nho giáo vốn được xem là “trọng nam khinh nữ”, việc sinh con trai trở nên quan trọng hơn bao giờ. Ở đây, người ta quan niệm rằng chỉ có người con trai mới được coi là “nối dõi tông đường” với nghĩa vụ “ôm bàn thờ”, coi sóc việc cúng bái ông bà, phần mộ tổ tiên. Từ ngàn xưa, khái niệmsuất đinh trong mỗi họ tộc chính là để chỉ số lượng người con trai, quyết định xem dòng họ lớn/ bé như thế nào. Dòng họ nào cũng có nhà thờ tổ, tựa như một ngôi đền thờ riêng, do các trai đinh coi sóc. Từ đó, trải qua bao đời, sẽ thấy việc sinh con trai luôn trở thành một vấn đề tối quan trọng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt. Biết bao điều ngang trái đã nảy sinh từ hệ ý thức này. Với điều tiếng xã hội, nhà nào không đẻ được con trai, kể như là tiệt giống! Việc cố sống cố chết đẻ bằng được cái “thằng cò” nỗi dõi tông đường hiển nhiên đè nặng lên vai người phụ nữ Việt từ bao đời nay. Trong kết cấu dòng họ, việc coi trọng con trai hơn con gái còn sinh ra nhiều hệ lụy khác. Ví như việc họ nội bao giờ cũng được coi trọng hơn họ ngoại, cái thế “nhất bên trọng, nhất bên khinh” là điều thực tế dù không ai muốn nói ra. Đáng chú ý hơn, có có những vùng quê, những người con gái trong gia đình còn không được phép mang họ bố. Thay vào đó, họ buộc phải lấy tên đệm của cha mình làm họ riêng cho tên gọi. Trong xã hội thời nay, điều này đã gây không biết bao nhiêu khó khăn cho thủ tục giấy tờ trên đường đời của những người con gái đó. Và mặc nhiên, họ chẳng có quyền thừa kế tài sản của gia đình, kể cả với pháp luật hiện hành.


2-Và nay...

          Từ sau thời kỳ đổi mới năm 1986, đời sống tâm linh tín ngưỡng trong xã hội nói chung được cởi mở, tự do hơn so với thời kỳ bao cấp XHCN. Theo đà thời gian, bộ mặt tín ngưỡng hỗn dung của người Việt lại được dịp phục hưng với đủ mọi sắc thái đa diện, xem ra còn phức tạp, hỗn loạn hơn cả thời kỳ phong kiến trước CM tháng 8. Hơn 10 năm trở lại đây, cùng với phong trào phục dựng những giá trị di sản văn hóa dân tộc, các lễ hội tín ngưỡng ở nhiều địa phương trong cả nước cũng dần được khôi phục. Thế nhưng điều đáng nói, trong xã hội hiện đại, đã bắt đầu nảy sinh những hiện tượng biến tướng ở nhiều hình thái tín ngưỡng. Trong đó có những vấn đề ngày càng trở nên bức xúc, được phản ánh nhiều trên công luận, như hiện tượng kinh doanh các dịch vụ tâm linh ở những cơ sở tín ngưỡng là ví dụ điển hình. Ở đây, trong xu thế phát triển văn hóa nói chung, việc biến các lễ hội thành sản phẩm du lịch trở nên một nhu cầu thiết yếu. Bởi thế việc cố gắng tận thu tiền bạc của du khách 4 phương là một hệ quả không thể khác. Đời sống càng khó khăn, động cơ thương mại càng được đẩy cao hơn bao giờ. Có những nơi, khi mở hòm công đức mỗi năm cũng đếm được cả hơn chục tỉ đồng mỗi hòm. Ở Hà Nội dịp đầu Xuân, nhiều ngôi chùa cũng công khai thu phí cúng sao giải hạn, dao động từ vài trăm nghìn đến cả tiền triệu mỗi suất cúng. Nhiều đàn cúng giải oan, cầu siêu... có giá cả dao động từ vài chục đến hằng trăm triệu đồng tiền thuê khoán sư sãi, thầy cúng... Có thể thấy, nguồn thu từ các hoạt động tâm linh tín ngưỡng quả là siêu lợi nhuận. Xã hội càng tín ngưỡng, càng mê đắm bao nhiêu, các đình, chùa, đền, miếu... càng có nguồn lợi lớn bấy nhiêu. Chính vì vậy ở nhiều nơi, quyền cai quản cơ sở tín ngưỡng đã được chính quyền tổ chức đấu thầu hệt như một đầu mục thương mại địa phương. Tùy vào tiếng tăm linh thiêng của những ngôi đền mà người ta sẽ quyết định mức giá. Có những nơi sau khi thắng thầu, thủ nhang đồng đền phải nộp vào ngân sách địa phương hàng tỉ bạc mỗi năm.


          Nhiều năm qua, báo chí cùng các phương tiện truyền thông liên tục phản ánh mọi thực trạng đáng quan ngại, được xem như hệ lụy của phong trào đua chen tín ngưỡng với nhiều vấn nạn nhức nhối. Ở đây, hệ thống quản lý Nhà nước dường như phải mở cuộc chạy đua với đời sống tín ngưỡng trong xã hội mới. Cấm/ cho phép/ cấm... luôn là quá trình vận động vá víu, đối phó với thực tiễn từ nhiều chục năm nay của các nhà quản lý. Chuyện “bắt cóc bỏ đĩa” là thực trạng thường thấy. Trên thực tế, việc đòi hỏi khâu tổ chức lễ hội trở nên quy củ, an toàn lành mạnh và trong sáng dường như là nhiệm vụ bất khả thi. Thứ nhất, xưa các lễ hội chủ yếu chỉ quy tụ dân cư thu hẹp trong từng vùng. Nay với sự quảng bá hấp dẫn của truyền thông, số lượng người hành lễ, chơi hội đổ về luôn quả tải trên mọi địa bàn. Do vậy, việc khống chế, kiểm soát lượng người trong những không gian nhỏ hẹp là điều bất khả kháng với ban tổ chức. Thứ hai, khi phục hưng các lễ hội, rất nhiều tín ngưỡng dân dã có dấu vết từ thời nguyên thủy cũng đồng thời “hồi sinh”, đánh thức sự trục lợi bản năng của con người với thần linh. Thực tế cho thấy, sự mê đắm của đám đông tín ngưỡng khổng lồ rất dễ biến thành thảm họa bởi hiệu ứng tâm lý đám đông, khả năng kiểm soát an ninh dường như là điều không thể. Nhiều năm qua, việc hàng vạn người từ quan chức tới dân đen dẫm đạp lên nhau để cướp ấn đền Trần, hay lượng người hành lễ khổng lồ tràn ngập chặn đứng giao thông Ngã Tư Sở trước cổng chùa Phúc Khánh để dâng lễ xin sao giải hạn, cầu tài lộc... đã chứng minh sức mạnh kinh hoàng của niềm tin tín ngưỡng “hồn nhiên” như thế nào! Ở đây, vấn đề không chỉ nằm ở khâu tổ chức, mà điều quan ngại chính làtrình độ tín ngưỡng, tạm coi như “tín ngưỡng trí” của xã hội, hiện đang ở mức không thể kiểm soát.


          Những năm gần đây, các cuộc hành hương về lễ hội tín ngưỡng là vấn đề nóng bỏng trong xã hội. Những nguy cơ tai nạn, thảm họa đám đông luôn thường trực mỗi độ Xuân về. Ở đây, chỉ xem xét cách thức hành hương cùng niềm tin tín ngưỡng trong các lễ hội đó đã thấy trình độ tín ngưỡng người Việt thời nay như thế nào. Ví như vụ Khai ấn đền Trần Nam Định, vốn là một sinh hoạt xưa của những thanh đồng phủ thủy. Đầu Xuân, họ thường đến xin lá ấn ở đền thờ Đức Thánh Trần, những mong thánh phù hộ cho công việc bắt ma trừ tà của giới nghề. Cần thấy rằng, chiếc ấn gỗ đó cũng là hàng mới thửa, không có ý nghĩa như một bảo vật lịch sử. Thế nhưng dần dà về sau, theo đường thì thầm rỉ tai lan truyền, chuyện “thiêng hóa” chiếc ấn với sức mạnh “phù danh”, “ban tài phát lộc” đã nhanh chóng lan truyền khắp nơi. Đến nỗi nhiều quan chức Nhà nước năm nào cũng đua nhau đánh xe công kéo về đền Trần xin ấn. Gần đây, một vị cựu quan chức cấp cao của bộ VHTT&DL cũng từng công khai thú nhận với báo chí rằng trong 10 năm đương chức, ông ta đều lấy ấn đền Trần, do người thân tặng hoặc tự tay xin ấn. Vị này cũng tiết lộ thêm rằng không chỉ ông ta mà nhiều quan chức khác cũng đi xin ấn như mình.


          Nhiều năm nay ở Hà Nội, có ngôi chùa đã công khai đọc vào loa phát thanh tên các vị lãnh đạo cấp cao đăng ký dâng sao giải hạn mà không còn e ngại. Và giờ đây, nếu có nghe chuyện vị lãnh đạo nọ kia chăm đi lễ bái, cầu cúng... hay thậm chí có làm lễ trình đồng mở phủ hầu bóng thì cũng không lấy gì làm lạ. Thời mở cửa tự do tín ngưỡng, sao bắt bẻ được người ta?! Thế nhưng vấn đề ở đây là câu chuyện “quan trí” đầu têu cho “dân trí”. Dễ thấy người dân sẽ hồn nhiên suy đoán, rằng các quan nhờ chăm lễ bái, cúng tế nhiều tiền, đốt nhiều vàng mã nên mới có chức tước, danh vị, bổng lộc, mình làm theo không được nhiều thì cũng được ít lộc vãi vương, cũng tốt! Bởi thế, mới nảy sinh hiện tượng đồn đại rằng cứ đền chùa nào có nhiều quan to đến lễ bái là đám dân đen a dua hành hương ăn theo, khiến cho vấn nạn thảm họa đám đông ngày càng trở nên khó kiểm soát. Chưa biết rồi đây hướng xử lý ra sao, nhưng qua sự kiện đó, sẽ thấy được tầm “quan trí” đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới “dân trí” trong tín ngưỡng như thế nào. Thời nay, cứ mỗi mùa lễ hội, nguy cơ thảm họa đám đông với đủ mọi điều bất cập về an ninh trật tự ở các cơ sở hành lễ tín ngưỡng luôn được phản ánh nhan nhản trên khắp các mặt báo.
          Trong sự sống dậy của các tín ngưỡng cổ xưa, vụ việc lùm xùm xoay quanh chuyện “cụ rùa” Hồ Gươm cũng là một biểu hiện sống động về sự hồi sinh của quan niệm vạn vật hữu linh thời nguyên thủy. Trên thực tế, “cụ rùa” vốn chỉ là một giống ba ba khổng lồ ăn thịt, dân gian gọi là con giải. Thế nhưng với niềm tin tâm linh đồn đại, con vật đã dần dà được thiêng hóa thành con “rùa vàng” truyền thuyết gắn với tích trả gươm thần của Lê Lợi từ thế kỷ 15. Bất chấp sự phi lý lịch sử như thế nào, bất chấp những bằng chứng khoa học rằng đó không phải là rùa và không chỉ có 1 con duy nhất, những người có tín ngưỡng vẫn khăng khăng bảo lưu ý kiến của mình, tạo nên những cuộc tranh cãi nảy lửa trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng. Điển hình như vị GS nọ đã phản ứng gay gắt với phóng viên khi dám gọi đó là... “con rùa”. Với ông, phải gọi là “cụ rùa” thì mới chịu trả lời phỏng vấn! Thậm chí có những người cuồng tín còn khóc rưng rức, hay nhảy xuống hồ rắp tâm hầu hạ “cụ rùa”… Rồi khi lực lượng chuyên trách tổ chức vây bắt để chữa bệnh cho con giải, người ta còn mời cả thầy cúng xem giờ, xuống thuyền sắm sanh lễ bái trước khi tiến hành như thể con giải đó là rùa thần thứ thiệt… Thôi thì đủ mọi chuyện dở khóc dở cười  với cái ý thức tâm linh hồn nhiên, vốn xưa cũ từ thời nguyên thủy. Có gia đình, với niềm tin kiểu “thần cây đa, ma cây gạo”, sức khỏe và sinh mạng của những người thân được gán cho một cái cây mọc trong vườn nhà. Họ tin rằng hễ cây ấy héo là người thân lâm bệnh, còn nếu không săn sóc tốt nhỡ để cây chết khô thì người nhà họ cũng toi mạng. Thời nay, chuyện đám đông thắp hương khấn khứa một cái cây góc phố, một hòn đá ven đường vẫn tồn tại đây đó. Sẽ không thấy lạ cái chuyện người người chen nhau lễ bái xì xụp, nhưng hỏi địa điểm đó thờ gì, sự tích ra sao, phần lớn không ai hiểu. Cứ thấy bảo thiêng lắm thì đi lễ thôi, còn những chi tiết cụ thể không thành vấn đề và cũng chẳng cần minh xác. Thế mới biết tâm lý “bán tín bán nghi” trong truyền thống tâm linh người Việt có sức mạnh như thế nào, thôi thì “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, cho chắc ăn! Có lẽ vì thế, hành vi trục lợi bất chấp sự vi phạm giáo lý Phật pháp như việc đốt vàng mã, hình nhân, rải tiền bừa bãi, nhét tiền vào tượng Phật… nơi cửa thiền là điều không có gì lạ. Sự vụ lợi của con người thường là vậy, họ sẵn sàng coi Phật thánh... không khác gì những quan tham trần thế kiểu “trần sao âm vậy”, cứ đắm đuối tin rằng càng cúng nhiều, thánh thần sẽ càng ban nhiều tài lộc... Niềm tin của người Việt “hồn nhiên” lắm, từ ngàn xưa đã vậy!



          Ở nhiều nơi, hiện tượng coi chùa này thiêng hơn chùa kia là chuyện khá phổ biến. Người dân từ bao đời luôn hồn nhiên tin rằng đi chùa này có thể cầu sao giải hạn, cầu danh, đi chùa kia có thể cầu tài lộc, cầu tình duyên… Với hiệu ứng tâm lý đám đông lan truyền đồn thổi, việc quá tải ở các cơ sở tín ngưỡng “linh thiêng” luôn là vấn nạn đối với cơ quan quản lý sở tại. Cần hiểu rằng Phật giáo vốn là một hệ tư tưởng triết học, đạo đức lớn. Chùa chiền là nơi để con người tìm đến một niềm tin cao cả dựa trên cơ sở tu tâm hướng thiện từng cá thể, hoàn toàn không phải là nơi trục lợi, trao đổi vật phẩm cúng bái để phục vụ cho những ham muốn trần tục. Ở đây, không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết của người dân về giáo lý, mà chính các nhà sư trụ trì cũng cần xem lại trách nhiệm về những gì đã và đang diễn ra ở cơ sở thờ tự của mình. Việc hiểu sai giáo lý nhà Phật đương nhiên sẽ dẫn đến những hành vi phạm giới. Xin nêu một ví dụ đơn giản. Khái niệmTam độc của Phật giáo bao gồm tham- sân- si. Khi đến cửa thiền mà không thấu hiểu giáo lý, đốt vàng mã, nhét tiền vào tượng, mang cả rượu thịt vào chùa, tin rằng cúng càng nhiều càng có cơ may hưởng phúc.., vô tình những người tham dự đều phạm phải điều răn thứ nhất (tham = tham lam, ham muốn) và thứ ba (si = ngu si, mê muội). Còn khi lòng tham biến thành sự cuồng nộ dẫm đạp tranh giành lộc lá, vật phẩm, họ tiếp tục phạm giới điều răn thứ hai (sân = nóng nảy, giận dữ). Trên thực tế, còn vô số những điều nhạy cảm khác nữa mà nhiều người e ngại chẳng muốn nói ra, như lối sống sung túc, xa hoa trên mức cần thiết với một nhà tu hành thời nay như vật dụng hàng hiệu, xe máy đắt tiền, ôtô sang trọng... nơi cửa thiền. Vậy số tiền đó ở đâu ra nếu không lấy từ nguồn công đức khổng lồ thu về mỗi năm của nhà chùa? Đây đáng được xem như một vấn nạn của Phật giáo Việt Nam đương đại.
          Nếu nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, có lẽ chưa bao giờ mọi sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt lại có cơ nở rộ muôn hình vạn trạng như hiện nay. Điều đó có nghĩa truyền thống hỗn dung tín ngưỡng được đẩy lên một bình diện mới mà ở góc nhìn toàn bộ, có thể coi như một sự hỗn tạp đáng quan ngại. Khắp nơi, người người cúng bái, nhà nhà xây mộ, từ quan chí dân đua chen hành hương lễ bái tấp nập, khẩn cầu danh lợi với thế giới siêu hình. Một thế giới “linh thiêng tổng hợp” đủ những Phật, Mẫu, thánh, thần, Ngọc Hoàng, chầu, cô, thần tài, thổ địa, tổ tiên ông bà, thần núi, thần sông, ông công ông táo, vong hồn đủ loại... Kèm theo đó là lực lượng giao tiếp trung gian, thường phối hợp giữa những sư sãi, ông đồng, bà cốt, thầy cúng, thầy bói, thầy phù thủy, thầy địa lý.., mọc lên nhan nhản như nấm sau mưa với đủ mọi kiểu dạng. Với mục đích thực dụng vụ lợi, vốn được xem như bản năng nguyên thủy của thế giới tâm linh, giờ đây việc cúng lễ trên chùa, đền, phủ, đình, điện, miếu dường như đã trở thành một thao tác mang đậm tính thương mại tín ngưỡng, không thể khác. Trong xu thế đó, khá nhiều nghề dịch vụ tâm linh ăn theo cũng đua chen phát triển nở rộ. Ví như tục đốt vàng mã vốn học từ Trung Quốc, hiện ngày càng cường thịnh song hành với đời sống tín ngưỡng dân gian phục sinh. Với quan niệm “trần sao âm vậy”, vàng mã thời nay đã cải tiến và thay đổi mẫu mã cơ bản so với thời cổ truyền. Thôi thì đủ mọi chủng loại từ trang phục tân thời, đồ đạc hiện đại như xe máy, ti vi, tủ lạnh, nhà lầu, xe hơi, điều hòa, máy tính, máy giặt, điện thoại di động... cho đến mẫu mã tiền tệ kiểu mới. Trong đó đáng chú ý là kiểu dạng tiền mã đô la Mỹ, tiền mã Việt Nam hiện đại.., được tiêu thụ song hành cũng tiền mã “ngân hàng địa phủ”, rất khôi hài. Có những đàn cúng lớn, giá trị đồ mã bao gồm ngựa, voi, hình nhân, quần áo, dày dép, mũ mão... lên đến hàng trăm triệu. Ở nhiều nơi, việc đốt số lượng vàng mã khổng lồ thực sự đẩy cao nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ở đây, niềm tin dân dã rằng càng đốt nhiều, càng hưởng lợi đã khiến môi trường công cộng phải chịu khá nhiều hệ lụy. Có những cơ sở tín ngưỡng công cộng, mỗi kỳ khánh tiết, do khối lượng tro tàn vượt quá sức chứa nơi thu gom rác thải, ban quản lý đã cho đổ thẳng xuống cống, bất chấp nguy cơ ách tắc nguồn thoát nước đô thị. Những gia đình ở phố thì mang ra vỉa hè hay lòng đường hóa vàng, có khi lửa cháy lõm cả mặt đường nhựa. Thế nên mới hiểu tại sao ăn theo dịch vụ vàng mã là hệ thống các chủng loại lò tôn hóa vàng di động cho các hộ gia đình đô thị. Thời nay, phong trào đốt vàng mã lan rộng và biến thái đến mức rất nhiều khu chung cư hiện đại, ban quản lý buộc phải xây thêm một lư hương hóa vàng to đùng ở sân trước mỗi khu để đảm bảo an toàn cho các hộ dân cư. Mới thấy tín ngưỡng thời nay ảnh hưởng cả đến kiến trúc đô thị hiện đại như thế nào!


          Trong cơ chế thị trường thời mở cửa, không hiếm các “quan thầy” tự tung tự tác, thường kiêm nhiệm cả chức năng thầy bói, thầy tướng, thầy địa lý kiêm thầy đồng cốt, ngoại cảm, kể cả việc tự nhận “thần tiên giáng bút” để thu tiền thiên hạ... Với thông tin rỉ tai lan truyền đồn đại, những vị “thầy đa năng” đó được xem như đa tài đa dụng, từ xem đất cát mồ mả, xem hướng nhà cửa, bếp núc, kích cỡ giường tủ bàn ghế, cửa rả, xem giờ xuất hành làm ăn buôn bán, ma chay cưới xin cho đến cầu cúng giải hạn, trừ tà tróc quỷ, gọi hồn người chết, sai khiến âm binh... Có thể nói nôm na gi gỉ gì gi cái gì thầy cũng làm được tất. Có những trường hợp “cao tay”, thầy đồng, cô đồng còn xưng xưng tuyên bố là gọi được cả linh hồn của những anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ đi mây về gió để làm theo những điều cô sai bảo. Ghê gớm hơn, có cô đồng còn huyênh hoang rằng mình gọi được cả hồn của Bin Laden, cô gọi đó là anh hùng đánh Mỹ... Nhà nào có việc gì hạn lớn họa bé, cô/thầy giải quyết hết. Nhà nào còn sót chưa thờ cúng ai, dù là bà cô, ông mãnh nào cũng gọi hồn về bằng hết để phù hộ cho con cháu ăn nên làm ra, buôn may bán đắt. Có muôn vàn những câu chuyện, những giai thoại về tín ngưỡng hỗn độn thời nay nhiều không kể xiết. Nhưng có lẽ việc gọi hồn là điển hình nhất với vô số những câu chuyện thực thực hư hư, đồn đại khắp nơi và nhan nhản trên các trang mạng xã hội.
          Đáng chú ý, cái nghề đồng cốt này thời xưa gọi là nghề cô hồn, nay được thay bằng cái tên mới là nhà ngoại cảm gọi hồn, áp vong... Thời nay, so với quá khứ, có lẽ chưa bao người ta lại dành nhiều thời gian và tâm lực cho thế giới âm hồn đến vậy. Ngay giữa lòng thủ đô, nhiều năm trở lại đây, phong trào gọi hồn có thể nói đã lên đến đỉnh điểm với trung tâm gọi hồn ở số 1 phố Đông Tác, được thành lập dưới sự bảo trợ của cơ quan nhà nước. So với thủa ban đầu vận hành, hiện các loại thầy cốt cô đồng nơi đây đã công khai hành nghề mang tính thương mại. Thậm chí, gần đây, những gia đình có nhu cầu gọi hồn khi đến trung tâm thường được nhân viên ngang nhiên “mời khéo” mua hàng đa cấp với giá trên giời. Ai chấp nhận sẽ được chen ngang ưu tiên gọi hồn trước, còn không sẽ phải xếp hàng chờ đợi, có khi cả tháng chưa đến lượt. Ở những đền phủ lịch sử hay điện thờ tư gia, xưa nay các đồng cốt thường chỉ “tiếp khách” lần lượt từng gia đình một. Nhưng ở trung tâm gọi hồn Đông Tác, do đông khách cũng như sẵn “quan thầy ngoại cảm” nên người ta thường tổ chức gọi hồn đồng loạt tập thể trong căn phòng lớn. Những ai có nhu cầu chỉ cần đặt lễ tiền, vàng, hương, hoa... lên 1 ban thờ chính rồi cứ quây quần mỗi nhóm gia đình chí ít 4 người “ngồi thiền” tĩnh tâm đợi vong về nhập. Bao giờ một trong số họ thấy người lắc lư mặt mũi tối xầm là… vong về. Khi đó các quan thầy sẽ đến khấn khứa, đặt tay lên đầu người bị vong nhập, gọi là “trợ giúp” để “thông cõi âm dương” cho âm hồn về, rồi mượn miệng chính người đó mà phán truyền. Nếu trường hợp vong hồn chưa “nhập” thì cứ thành tâm mà đợi hàng tiếng đồng hồ hoặc ra đặt lại lễ xin ở ban thờ hay nhờ quan thầy khấn giúp... Có điều lạ, nơi đây dù không phải chùa nhưng ban thờ chính vẫn được gọi là “Tam bảo” thờ Phật đàng hoàng. Dư luận về trung tâm gọi hồn này rất trái chiều, người thì cho là đúng và thiêng lắm, kẻ thì bảo là lừa đảo tập thể kiếm tiền bạc tỉ.
          Trong các vụ việc lùm xùm cúng bái giao tiếp với âm hồn, sự lập lờ đánh lận con đen trong quan niệm khoa học tâm linh, việc cố lý giải những hiện tượng siêu nhiên, bất thường cùng các thao tác tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng trở nên đan xen hỗn độn. Ở đây, chỉ nhìn vào chuyện mồ mả vong hồn, đã thấy được niềm tin của người thời nay biến đổi như thế nào so với thế kỷ trước. Cả chục năm trở lại đây, phong trào tìm hài cốt, gọi hồn người thân, xây cất mồ mả... đã trở nên sôi động hơn bao giờ. Có thể tìm thấy trên các phương tiện truyền thông rất nhiều câu chuyện hư hư thực thực, bán tín bán nghi cũng như dở khóc dở cười  xoay quanh chủ đề này. Khắp nơi, chưa bao giờ việc hoành tráng hóa các khu mộ phần lại trở nên chủ đề nóng bỏng trong đời sống xã hội. Thậm chí có những vùng quê, sự tốn kém đến kinh ngạc của phần mộ ông bà tổ tiên hoàn toàn tương phản với đời sống còn nhiều khó khăn cơ cực của người dân sở tại. Bên cạnh niềm tin tâm linh, dường như cái áp lực “miệng tiếng thế gian” chính là động cơ quan trọng thúc đẩy hiệu ứng tâm lý đám đông đua tranh. Có nghĩa, dù tin hay không, nhưng việc để mồ mả họ tộc nhà mình không to đẹp, bề thế hơn các nhà khác là điều không thể chấp nhận. Nói cách khác, dưới góc độ vật chất, việc thờ cúng tổ tiên thời nay không chỉ để thỏa mãn nhu cầu tâm linh tín ngưỡng mà còn là dịp để thể hiện cái tôi/ gia đình/ dòng họ trước cộng đồng. Thế nên không có gì lạ khi cuộc chạy đua xây cất mồ mả trở nên vấn đề nóng bỏng. Dù xa xôi cách trở rừng núi như thế nào, chỉ cần có thầy cúng, cô đồng nào đó phán truyền là nhiều gia tộc lại khăn gói lên đường, miễn sao quy tập được càng nhiều càng tốt hài cốt người thân về nơi “đất tốt”- tất nhiên cũng do thầy địa lý chỉ bảo sắp đặt. Thời nay, dịch vụ tìm mộ được xem như một thị trường cung cầu rất sôi động. Và, người ta cũng sẵn lòng bỏ chi phí tốn kém hàng chục đến hàng trăm triệu đồng cho việc xây cất phần mộ gia tộc.
          Trong công cuộc tìm mộ người thân, việc xác định danh tính hài cốt cũng là vấn đề nổi cộm. Trên thực tế không hiếm trường hợp “bộ xương” mang về chỉ đơn giản là một tổ mối với nắm đất đen chứ chẳng có hài cốt nào cả. Thường thì người ta không đưa đi xét nghiệm AND với lý do “không nỡ” làm thế với “nắm xương tàn” của người thân, rằng thời gian qua đi, xương thịt tan thành đất cát thì cũng dễ chấp nhận. Thế nên mới có chuyện nhà ngoại cảm nọ tìm được cả số lượng khủng hài cốt, tới hàng trăm mộ mỗi năm. Mà phần nhiều họ chỉ hướng dẫn các thân chủ từ xa qua điện thoại di động, mới kinh! Cũng có trường hợp, gia đình không thể tìm được hài cốt người thân, cô đồng, thầy phủ thủy bèn bày cho cách lập mộ khác. Họ thuê thợ đẽo các hình nhân đá, rồi làm lễ gọi hồn về nhập tượng và đem chôn trong phần mộ gia tộc với quan niệm, linh hồn mới quan trọng chứ không phải nắm xương vật chất. Có lẽ, cách lập mộ này nhanh gọn hơn cả! Trong nhiều năm qua, việc gọi hồn áp vong thực sự gây dư luận trái chiều mạnh mẽ, đến mức có nhà nghiên cứu thôi miên đã từng lên báo mạng thách đố các nhà ngoại cảm nếu chỉ tìm đúng 3% hài cốt (xác định ADN) thì ông sẽ hiến cả gia sản, còn nếu không xin cắt lưỡi nhà ngoại cảm đó để hết nói láo. Bản thân một nhà ngoại cảm nổi tiếng cũng tuyên bố mặt trái nguy hiểm của việc áp vong. Đại khái ông cho rằng các hồn ma lang thang sẽ nhập bừa vào người áp vong, nhận xằng là người thân để quấy nhiễu, phán truyền lung tung... Trên thực tế, những người mê tín khi giao tiếp, thông linh với các “vong hồn” rất dễ (có khả năng) bị “quỷ ám”, dân gian cũng gọi là quỷ nhập tràng. Ở góc độ tâm lý học, người bị “vong nhập” thực chất bị rơi vào trạng thái tự kỷ ám thị nặng nề, điều này đã được khoa học chứng minh từ lâu. Vậy mà không ít người thời nay vẫn đua chen giao tiếp với “âm hồn”, và đã có trường hợp những người không hồi tỉnh được, gần như hóa điên phải nhập viện.


          Thế đấy! Thời nay một mặt người ta vẫn lễ chùa quy Phật, chấp nhận thuyết nhân quả- luân hồi với quyền năng phán xử của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Một mặt người ta vẫn khăng khăng gọi hồn, tìm mộ xây mồ với quan niệm chưa xác định và quy tập được hài cốt, chưa cúng bái đủ lệ bộ thì người chết vẫn vất vưởng không nơi nương tựa, trở nên những vong hồn lang thang đáng thương vô định. Rồi hệ thống những vong hồn đó còn phải được lập đàn cầu siêu thì mới siêu thoát! Thậm chí người ta còn lập đàn cầu siêu cho những chiến binh từ thời.... Trần ở bến sông Bạch Đằng. Không biết những anh hùng liệt sĩ có công đánh giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc thì các quan Diêm vương có độ cho siêu thoát, đầu thai làm kiếp người..? Hay các ngài để hàng vạn linh hồn vất vưởng đói khát tới hơn 7 thế kỷ, để rồi đợi người đời nay mời sư sãi Phật tử đến làm lễ cúng dàng thì mới siêu thoát?! Không khéo cứ đà này, xem ra người ta sẽ phải lần lượt lập đàn cầu siêu ở muôn vàn địa danh chiến trận lớn nhỏ trên phạm vi toàn quốc, ứng với hàng nghìn năm lịch sử dân tộc, mới mong các vong linh, âm hồn tiền nhân Việt Nam được siêu thoát toàn thể! Như đã biết, thực ra cầu siêu vốn là một nghi lễ phát sinh thuộc những tông phái Phật giáo chịu ảnh hưởng văn hóa, đạo giáo Trung Quốc. Trên nguyên tắc “kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả” ghi rõ trong Kinh Địa Tạng- Phẩm thứ 7, sẽ thấy việc cúng bái này nếu đem lại 1 phần công đức cho vong hồn thì những người tổ chức lễ cầu siêu cũng sẽ được hưởng 6 phần. Với ý nghĩa đó, thiết nghĩ cũng không phải bàn thêm! Bản thân tôi có lần được dự lễ cầu siêu các liệt sĩ thời chống Pháp ở một nghĩa trang thuộc tỉnh Hà Nam. Giữa trưa hè nắng gắt, nhà ngoại cảm cầm micro đi đến từng ngôi mộ vô danh trong nghĩa trang, đọc vanh vách tên tuổi từng người rồi nói chuyện qua lại như thể với người đang sống. Đi bên cạnh, vài người phụ tá tranh thủ ghi chép lại xem các liệt sĩ yêu cầu gì. Nghe thấy nói các chiến sĩ năm xưa vì chết bởi bom napan của Pháp nên các linh hồn rất... nóng và khát nước, người ta bèn đổ xô đi mang về nhiều thùng lavie để cúng kịp thời... Rồi nhà ngoại cảm thuật lại lời các linh hồn than rằng hơn nửa thế kỷ qua, họ đói khát lắm, chẳng có gì ăn nên phải ăn mày cửa Phật ở một ngôi chùa trên ngọn núi gần đó; rồi... có anh em được về nghĩa trang này, nhưng cũng còn nhiều người phải nằm lại trên núi... Thế là ngay sau đó, các cô các bà cùng ban tổ chức lập tức sắm sanh lễ vật lên chùa... Kết thúc lễ cầu siêu, các nhà sư (được mời từ Hà Nội) lẳng lặng thu vén đồ nghề sau khi đã nhận phong bì dầy cộp của ban tổ chức. Trên đường về, cả đoàn dừng chân dọc đường ăn cơm nhà hàng, đương nhiên toàn cỗ mặn với bia rượu đầy bàn, thấy các sư vẫn điềm nhiên đánh chén, mặc cho mọi người xung quanh hiếu kỳ xì xào nhòm ngó.


          Trong thế giới cửa thiền thời nay, cũng không hiếm các nhà sư kiêm nhiệm thêm các chức năng thầy cúng, thầy bói, hay phù thủy bắt quỷ trừ tà. Có lần, anh bạn thân của tôi có đứa con trai bị đau bụng dữ dội, đi khám nhiều nơi nhưng bác sĩ không tìm ra căn nguyên. Đi xem bói thì thày bảo là bị ma làm. Thế nên bà mẹ vợ (vốn là Phật tử) bèn tìm đến cầu khẩn một đại đức có tiếng trừ tà, bắt ma chữa bệnh. Rồi sau bao lần xin xỏ, van nài, cậu bé cũng được vị đại đức nọ cho cái hẹn đến một ngôi chùa lớn ở Hà Nội để giải quyết căn bệnh nan y. Nhưng dù đã có hẹn, cả nhà anh vẫn phải chầu chực hơn nửa buổi sáng vì thầy bận họp trị sự giáo hội, mãi mới xin tiếp cận được. Rồi cũng phải xếp hàng sau khá nhiều người vì đó là dịp hiếm hoi đại đức lên Hà Nội, những người nghe danh tiếng thầy đều chen nhau đến xin giải hạn, ban phúc, trừ tà cho nhà họ. Rốt cuộc, cháu bé con anh bạn tôi cũng được vị đại đức gọi vào rồi quay một con lắc dạng pháp bảo để trừ tà, lúc đó cháu vẫn ôm bụng quằn quại. Được dăm phát quay, thầy xoa đầu bệnh nhân rồi phẩy tay bảo đi ra. Nhưng thấy cháu vẫn đau đớn, gia đình cầu xin thầy xem lại, thầy nói cái này là ma làm, nhưng mà con ma có vào chùa được đâu mà bắt(?) Tuyệt vọng, bà ngoại cháu bé quỳ mọp xuống mếu máo chắp tay vái sống vị đại đức trong nước mắt lã chã, những xin thầy ra tay bắt ma cứu người, nhưng đại đức nhất quyết xua tay bảo mọi người đi về. Hỏi ra mới biết thầy chuẩn bị vào tiết học môn chính trị Mác -Lê Nin, hình như để chuẩn bị cho kỳ thi cao học thì phải?! Cực chẳng đã, tôi và anh bạn đành dìu 2 bà cháu ra về, nghĩ mà ấm ức, đại đức biết ma quỷ không thể vào chùa được sao còn hẹn người bệnh đến chùa bắt ma làm chi?


Phần 2:
          Sang đầu thế kỷ 21, thật không quá khi nói rằng niềm tin mãnh liệt về thế giới âm hồn vĩnh hằng là sự nổi trội ở đời sống tâm linh người Việt. Trong đó, việc thờ cúng tổ tiên vốn xuyên suốt chiều dài lịch sử văn hóa tín ngưỡng nay càng được chú trọng hơn bao giờ. Thế nhưng ở đây, việc xác định cơ cấu tổ tiên là điều cần phải được xét lại. Về mặt logic, bao nhiêu đời được gọi là tổ tiên? Và cái gọi phần mộ tổ tiên gia tộc liệu có thể chấp chứa bao nhiêu bộ hài cốt theo dòng lịch sử bất tận? Thử làm một phép tính đơn giản, lấy một người làm đơn vị phần tử đầu tiên, ngoài việc thờ cúng bố mẹ đẻ của mình (2 người), họ còn phải thờ ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại (4 người). Cứ thế, họ sẽ có 8 cụ nội ngoại, 16 kỵ nội ngoại..v.v.. Đây là dãy số tăng dần theo cấp số nhân với công bội là 2:
1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256...
          Đó là chưa kể đến các quan hệ thân tộc khác như anh chị em ruột, anh chị em họ, cô, dì, chú, bác nội ngoại, các vai vế ngang hàng với đời ông bà, với đời cụ kỵ nội ngoại..v.v.. Và tất nhiên cũng chưa kể đến chuỗi họ hàng nội ngoại bên vợ (hay chồng) khi xây dựng gia đình. Từ đó dễ thấy tính hữu hạn về số lượng của mỗi khu phần mộ gia tộc cũng như số lượng giới hạn “tổ tiên ông bà” mà mỗi con người có thể nhớ được trong đời. Theo đó, thường thì người ta chỉ có thể quy tập lượng ít ỏi mồ mả, tính đến vài ba đời là cùng. Tất tần tật số còn lại bao gồm những họ hàng nội ngoại dây mơ dẫy má cho đến những tiền nhân xa xưa sẽ được... quên dần theo thời gian bởi sự bất tận của nó. Thực tế, người ta sẽ chỉ thờ cúng mộ cụ A, B, C... đời tam đại (hoặc giả tứ đại) nào đó mà chẳng thể đoái hoài đến bố hay ông hoặc cụ kỵ của cụ A, B, C... Có nghĩa việc thờ cúng giỗ chạp tổ tiên nội ngoại thực tế không thể không giới hạn trong khoảng 3 đời, bởi khả năng ghi nhớ lo việc giỗ kỵ toàn bộ lớp lớp tiền nhân là điều không tưởng. Thế nên mới có lệ chia họ tộc thành các chi, ngành cùng các khái niệm Cao Tằng Tổ KhảoCao Tằng Tổ Tỷ hayTiên Tằng Tổ Khảo để chỉ tổ tiên chung chung, mơ hồ. Khi chia tách tộc họ, người khởi đầu một chi ở vùng đất mới sẽ có thể được coi là cụ tổ mới, như một tiền nhân còn được biết đến trong lịch sử gần nhất. Thực tế cho thấy, ngay cả cụ tổ mới đó rồi cũng dần bị quên lãng theo thời gian. Như vậy, có thể khẳng định khái niệm tổ tiên là hết sức tương đối trong vòng cuốn chiếu luân chuyển theo từng lát cắt thế hệ. Không thể nhớ xa, chỉ nhớ những gì gần với mình, đó chính là tính hữu hạn và phần nào thực dụng của hệ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dòng tộc. Ở đây, tính hữu hạn của khái niệm dòng tộc cũng thể hiện phần nào ở chính bản thân sự giới hạn của ngôn ngữ. Cụ thể, thuộc tính họ nội, ngoại cũng như giới (nam/nữ) cho các đại từ nhân xưng chỉ có thể xác định rõ ràng đến thế hệ thứ 3 (cha/mẹ, ông/ bà). Còn từ hàng cụ trở đi thì chỉ gọi là cụ, kỵ chung chung, khó xác định. Sẽ thấy càng lên cao, các khái niệm nội/ ngoại càng trở nên rối rắm mơ hồ... Ví dụ, 2 cụ đẻ ra ông nội thì hẳn là 2 cụ nội rồi, nhưng 2 cụ đẻ ra bà nội thì không biết gọi là gì cho chính xác? Bởi đó là họ ngoại của bố, mà con lại theo họ bố/ ông nội. Giả sử nếu cũng gọi đó là 2 cụ nội thì sẽ không phân biệt được với 2 cụ đẻ ra ông nội, còn nếu gọi  là 2 cụ ngoại, ắt sẽ lẫn sang họ bên mẹ. Không lẽ gọi đó là 2 cụ nội thuộc họ bên ngoại của bố?


          Cũng vì sự dây mơ rễ má quá phức tạp mà trên thực tế, nhiều cây phả hệ chỉ ghi danh những người thuộc họ nội, bỏ qua họ ngoại cùng vợ/chồng của những người trong dòng tộc. Thế nhưng nếu coi “cây có cội, nước có nguồn”, ắt không thể phân biệt đối xử nội/ ngoại bên trọng bên khinh như vậy! Thế nhưng nếu ghi nhận ngọn ngành trọn vẹn thì lại là điều quá sức với người đời. Bên cạnh tính hữu hạn đó, trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ông bà nhiều khi còn nảy sinh lắm chuyện rắc rối ở việc xác định nguồn cội. Như đã biết, thường thì bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... của cụ tổ coi như không được tính đến vì không xác định được danh tính. Nhưng vấn đề đặt ra là nếu xác định được thì sao? Ví dụ lâu nay chúng ta ghi nhận ngày giỗ quốc tổ Hùng Vương. Chuyện đó nghiễm nhiên dẫn đến câu hỏi liệu có thờ cúng giỗ chạp bố quốc tổ (tức Lạc Long Quân), mẹ quốc tổ (tức Âu Cơ), ông nội quốc tổ (tức Kinh Dương Vương), bà nội quốc tổ (con gái vua hồ Động Đình)..v.v.? Rồi cứ lần theo những gì huyền sử đã ghi nhận được thì câu chuyện xem ra khá rắc rối, hay đành lờ đi vậy!?
          Cũng nói thêm về việc thờ cúng tổ tiên, bên cạnh tư tưởng “uống nước nhớ nguồn” cũng cần xem xét mặt trái của vấn đề. Người Việt vốn quan niệm hệ thống mồ mả ứng với thế giới vong hồn có tác động trực tiếp lên thế giới người còn sống. Người ta tin rằng mọi hiện tượng vui/buồn, sướng/khổ, phúc/họa nơi trần gian đều có tính hệ quả, chịu sự chi phối mạnh mẽ từ thế giới âm hồn. Ai chăm sóc tốt phần mộ thì có thể hưởng lợi, được tổ tiên ông bà phù hộ, ban phúc lộc, nếu không dễ bị giáng họa... Các khái niệm mộ kết, mộ phát, động mồ động mả... là ví dụ điển hình của niềm tin tín ngưỡng thể hiện sự ràng buộc sâu sắc giữa dương gian và cõi âm. Như thế, trong sự cầu cúng tổ tiên, săn sóc mồ mả, bên cạnh sự tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân là mục đích mưu cầu lợi ích cho bản thân gia đình người còn sống. Nói cách khác, tính vụ lợi/thực dụng luôn song hành cùng cái gọi “uống nước nhớ nguồn”, thể hiện tính 2 mặt hiện hữu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mới hiểu tại sao người ta có thể lao tâm khổ tứ đến vậy với chuyện mồ mả. Như chuyện tại sao gia đình nọ chỉ lo chăm sóc xây dựng phần mộ thế hệ cụ kỵ ở vùng quê xa xôi mà không quan tâm đến phần mộ thế hệ ông bà ở vùng cư trú. Lý do hoàn toàn theo lời phán truyền của thầy bói, cho rằng khu mộ cụ đang phát, không xây cất thì nhà sẽ gặp đại họa hay không thể “ngóc đầu” mà ăn nên làm ra. Tương tự, không hiếm trường hợp người ta chỉ chăm chăm bỏ tiền xây cất khu mộ phần thuộc chi họ nhà mình, sẵn sàng hoành tráng hóa sao cho to hơn cả khu mộ tổ kế bên, như để thể hiện sự vượng phát chi/ngành họ của mình nhằm hy vọng “hưởng lợi” theo lời thầy bói. Hay chuyện đám con cháu chỉ lo chăm sóc phần mộ cụ tổ bên nội mà không hề đoái hoài đến phần mộ bên ngoại, thường coi đó là việc của dòng họ khác. Âu đó cũng là những hệ lụy tất yếu của quan hệ chằng chịt họ hàng nội ngoại rối rắm, vốn quá sức với người còn sống. Thời nay, với niềm tin về thế giới âm hồn vĩnh hằng, không hiếm những người con khi cha mẹ còn sống thì vô tâm hay đối xử tệ bạc, nhưng khi chết thì làm đám ma linh đình, rồi xây mồ đắp mả cúng tế hoành tráng, như thể việc chăm sóc người chết tối quan trọng hơn người sống. Hoặc giả người ta coi việc phụng thờ âm hồn là hoàn toàn có thể bù đắp, chuộc lỗi cho mọi thiếu hụt, sai sót của thế giới trần gian vậy. Điều đáng chú ý, tuyệt đại đa số mọi hành vi tín ngưỡng xoay quanh phần mộ tổ tiên đều nhất nhất theo sự hướng dẫn của các thầy bói, thầy cúng, cô đồng, phù thủy... Đến mức thời nay, nếu có nói đa số con người hiện đại đang “sống và làm việc theo lời thầy bói” thì xem ra cũng không có gì quá đáng. Thôi thì cưới xin, ma chay, cải táng, xuất hành.., nhất cử nhất động đều phải thỉnh các loại ông thầy mà làm theo để đảm bảo thế giới âm hồn tổ tiên luôn song hành phù trợ.


          Xét trên góc nhìn toàn bộ, đối tượng thờ phụng của các tín ngưỡng tôn giáo nói chung (như Phật, Chúa, Thánh, Mẫu, thành hoàng...) là niềm tin tín ngưỡng có tính rộng mở, bao phủ tâm linh, bảo trợ an sinh cho cả một cộng đồng lớn, cho một dân tộc hay một quốc gia... Ngược lại, ngôi vị tôn thờ của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn khu biệt trong từng dòng họ giới hạn, lấy đơn vị gia đình cá thể làm cơ sở. Có nghĩa nó chỉ phục vụ đời sống tâm linh riêng cho dòng họ đó mà thôi. Bởi thế, mọi hành vi, mục đích tín ngưỡng đơn giản chỉ mang tính tư lợi cục bộ của từng tiểu cộng đồng nhỏ lẻ, chủ yếu thúc đẩy sự cố kết nội bộ dòng tộc với tính gia trưởng, ganh đua mang đậm chất tiểu nông, ít nhiều hạn chế sự đoàn kết, đồng tâm hướng tới đức tin chung của cả cộng đồng lớn. Ở Việt Nam, nếu coi mỗi ngôi từ đường như một đền thờ riêng của dòng họ thì nếu tính về số lượng, hẳn sẽ vượt xa mọi cơ sở thiết chế của hệ thống các tín ngưỡng tôn giáo khác như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ Thiên chúa... Trong đó, rất nhiều ngôi từ đường có kiến trúc bề thế không kém gì một ngôi chùa, hay ngôi đình làng to lớn. Thậm chí thời nay có những ngôi từ đường còn được dát vàng ròng nguy nga tráng lệ như một cung điện vua chúa, nhưng tất cả rút cục cũng chỉ để phục vụ lợi ích tâm linh cho một dòng họ mà thôi. Thử suy đoán, sẽ thấy rất có thể từ ngàn xưa, chính truyền thống thờ cúng tổ tiên dòng họ vụn vặt đó đã khiến người Việt không thể xây dựng được những tôn giáo lớn cùng hệ tư tưởng, triết thuyết phổ quát mà đành phải du nhập từ bên ngoài?! Hiện nay, chỉ cần nhìn vào các nghĩa địa tân thời, hệ thống các từ đường là có thể hiểu được cuộc đua tranh dòng họ lớn như thế nào. Mộ tổ, từ đường dòng họ này phải cao hơn, to hơn, cầu kỳ hơn, đắc địa hơn dòng họ kia, như một tấm gương phản chiếu rõ nét những động cơ vụ lợi, ích kỷ cá nhân cùng những hệ lụy của nó. Trong truyền thống lịch sử, có lẽ những câu chuyện ly kỳ về việc “táng mả hàm rồng” mưu cầu đế vương, vinh hoa phú quý của người Việt là minh chứng sống động nhất về hành vi thực dụng, vụ lợi của người sống với thế giới âm hồn tổ tiên. Niềm tin, ước mơ hồn nhiên đó thậm chí còn được chạm khắc khá nhiều lên những vì kèo đình làng Việt, như thể hiện một khát vọng lớn lao của ông cha xưa. Điều đáng nói, cái niềm tin “đất cát mồ mả đắc địa” đó vẫn được duy trì bảo lưu đến tận ngày nay với vai trò dẫn dắt của lực lượng các thày phủ thủy, thày địa lý thế hệ mới (thường gọi là nhà phong thủy). Vấn đề đặt ra ở đây là hành vi trục lợi từ mồ mả, vong hồn tổ tiên liệu có đáng được xem như niềm tin “uống nước nhớ nguồn”? Đã đến lúc phải xem lại mặt trái giá trị đạo đức ở hệ tín ngưỡng này. Cũng xin nói thêm, hiện nay có rất nhiều người trong chúng ta đang rất đỗi tự hào về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc, coi đó như một sự thể hiện đạo đức “uống nước nhớ nguồn” của người Việt. Thế nhưng cần phải thấy rằng trên thế giới, các cộng đồng, các dân tộc không thờ cúng tổ tiên thì cũng không có nghĩa là họ không “uống nước nhớ nguồn” như chúng ta!


Thời nay, trong những hình thái tín ngưỡng được phục hưng, có lẽ phong trào sôi nổi rầm rộ và phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến tín ngưỡng Tứ phủ. So với thời xưa, có lẽ chưa bao giờ hình thái tín ngưỡng này lại đạt một vị trí cao như vậy trong đời sống tâm linh người Việt. Sau cả phân nửa thế kỷ bị cấm hoạt động, giờ đây sinh hoạt lên đồng có thể nói là nở rộ như nấm sau mưa. Không còn lạ những chuyện người người lên đồng, nhà nhà hầu thánh nữa. Về mặt lợi ích kinh tế, doanh thu của các đền phủ thờ Thánh Mẫu thường ở vào thứ hạng cao hơn so với hệ thống chùa chiền, đình miếu nói chung. Điều này hẳn là nguyên nhân khiến cho rất nhiều ngôi đền, phủ nổi tiếng đều phải mở thầu cho chức thủ nhang đồng đền. Như đã nói, có những nơi, vị thủ nhang phải nộp hàng tỉ bạc vào ngân sách chính quyền địa phương mỗi năm. Có nơi, chính quyền tỏ ra khôn ngoan hơn, cử hẳn các cán bộ phòng văn hóa đứng ra coi sóc đền phủ để đảm bảo tận thu toàn bộ. Nói vậy để biết nguồn lợi từ sinh hoạt tín ngưỡng lớn như thế nào. Với đặc tính thương mại tâm linh từ ngàn xưa, mức giá chi phí cho sinh hoạt hầu đồng thời nay cũng leo thang theo mặt bằng giá cả sinh hoạt xã hội. Hiện nay, ở Hà Nội, giá thành lễ mở phủ trình đồng cho những người mới gia nhập tín ngưỡng dao động từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng. Tùy vào sự bề thế của đền to phủ lớn, tiền lệ phí “giọt dầu” bắc ghế hầu thánh cũng tính trung bình vài triệu/ một vấn hầu. Việc chi phí cho một vấn hầu cỡ hàng trăm triệu đã là chuyện không hiếm. Cá biệt có những chân đồng giàu sang, sẵn lòng bỏ cả tỷ bạc mỗi lần hầu thánh.
Có lẽ trên thế giới, không có một tôn giáo tín ngưỡng nào mà người gia nhập lại phải tiêu tốn tiền của nhiều như vậy. Thế nhưng sự tốn kém đó không hề làm nản lòng những người được gọi là có “căn đồng”. Điều này có lẽ xuất phát từ bản chất của tín ngưỡng Tứ phủ, rất khác với các hình thái tâm linh nói chung. Đại thể những tín đồ của Phật giáo, Thiên chúa giáo hay Hồi giáo... thì không thể hóa thân thành phật Thích Ca, chúa Giêsu hay thánh Allah... nhưng với các chân đồng Tứ phủ thì ngược lại. Ở đây, các ông đồng bà đồng vừa đóng vai trò tín đồ, vừa có cơ hội hóa thân lần lượt để trở thành chính những vị thánh trên điện thần mà họ phụng thờ. Trong các vấn hầu của mình, người “bắc ghế” hầu thánh Tứ phủ luôn được đám đông tôn vinh cổ vũ trong trạng thái “nhập thần- hóa thánh” liên tiếp, hết giá này qua giá khác. Với những khoảnh khắc “thần tiên” đó, chân đồng được thụ hưởng mạnh mẽ cái cảm giác “thánh bề trên” trong giao tiếp ứng xử, khi phán truyền với đám đông người tham dự. Đây được xem như yếu tố vô cùng hấp dẫn với người trần mắt thịt. Có ai mà không cảm thấy sung sướng thăng hoa khi được cộng đồng phút chốc ngưỡng vọng như một vị thánh chính hiệu, lúc lúc xì xụp chắp tay vái lạy thành kính, lúc lúc hò la náo nhiệt cổ vũ.

Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh

Trên thực tế, việc “nhập thần- hóa thánh” ở đây chính là sự diễn xuất sân khấu của các chân đồng trong những vai diễn thần thánh. Mỗi giá đồng thể hiện hình ảnh một vị thánh Tứ phủ, từ phục trang cho đến những phong thái, tính cách cùng các hoạt động biểu trưng riêng như tựa gối hút thuốc, uống trà, uống rượu, nghe thơ văn, múa gươm, múa đao, múa hèo, múa cờ, múa quạt, múa mồi, chèo đò, quẩy gánh bán hàng.... Với đặc điểm đó, chiếu hầu đồng được xem như một “sân khấu” văn nghệ tâm linh với nhiều dáng vẻ hấp dẫn riêng của nó. Cả người bắc ghế hầu lẫn đám đông tham dự được đắm chìm miên man trong trạng thái tâm lý tự sướng đa cảm xúc, kết hợp giao lồng các yếu tố “nhập thần- hóa thánh”, diễn viên sân khấu, diễn viên múa, trình diễn thời trang. Điều đặc biệt, mỗi giá đồng trong các vấn hầu không thể thiếu được màn ban tiền phát lộc với sự biểu hiện của 2 chiều cạnh tâm lý cho/nhận đồng thuận hả hê. “Thánh” thì hưởng thụ cái cảm giác “bề trên quyền năng” ban phát, bố thí cho “chúng sinh” trần gian khi vung tay tung tiền bạc, lộc lá vào đám đông. Còn khán giả tham dự thì hỷ hả mãn nguyện với cảm giác sung sướng tràn trề khi vớ được tiền thần, lộc thánh một cách dễ dàng tự nhiên như mưa sa trên trời. Tất cả lại diễn ra trong không gian điện thờ linh thiêng, trang hoàng lộng lẫy cùng phần đệm khi khoan thai tinh tế, lúc sôi động náo nhiệt với tiết tấu vũ điệu cuồng say của dàn nhạc Chầu văn quyến rũ. Có thể chính cái tâm lý tự sướng “thánh thần” đó lý giải việc tại sao người ta phải đặt một tấm gương to dưới điện thờ, trước mặt người hầu. Hẳn để các chân đồng trước nhất có thể nhìn thấy rõ trong gương hình bóng “thánh hóa”- tức sự hóa thân của mình “hiện thực” như thế nào. Bên cạnh sự thăng hoa lúc lên đồng, khi gia nhập tín ngưỡng, mỗi chân đồng thường “tự vận” căn số của mình ứng với một vị thánh cụ thể nào đó như căn Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, Cô Bơ, Cô Chín, Chầu Năm, Chầu Bé... Hệ quả là trong cuộc sống thường nhật, họ cũng thường ám thị tính cách bản thân giống với “căn cốt” các vị thánh huyền tích, trong đó có cả tính cách mà dân gian thường lưu truyền kiểu “Phật từ bi, thánh chấp từng li”. Như vậy, cộng với cái căn cốt “con cưng” của Mẫu, việc tự kỷ “thánh hóa” bản thân, cảm giác vị thế cao sang hơn người vừa trình bày có lẽ là đặc điểm hấp dẫn mãnh mẽ của hình thái tín ngưỡng này. Và, những đặc điểm đó cũng đồng thời tạo nên một tính cách đặc trưng riêng của các con nhang đệ tử Tứ phủ, một tính cách đồng bóng đi mãi cùng các chân đồng theo năm tháng.


Hơn 10 năm trở lại đây, tín ngưỡng Tứ phủ được một bộ phận giới chuyên môn nâng tầm, tôn vinh như một tôn giáo lớn có tính chất đại diện đời sống văn hóa tâm linh dân tộc- gọi là Đạo Mẫu. Có thể nói, chuyện đó đã tác động không nhỏ đến thái độ ứng xử của xã hội, khiến việc gia nhập tín ngưỡng ngày càng trở nên sôi nổi tấp nập. Từ già đến trẻ, từ sang tới hèn, từ quan chí dân.., giờ đây sinh hoạt hầu đồng đã phục hưng và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ. Thậm chí, có trường hợp những cháu bé còn ở độ tuổi thiếu niên nhi đồng cũng được gia đình cho làm lễ mở phủ trình đồng hầu thánh. Xưa, chuyện “tiền Phật hẫu Mẫu” trong chùa Việt không mấy phổ biến. Nhưng thời nay, việc nhà sư cho xây điện thờ Mẫu trong khuôn viên chùa, kèm theo đó chấp nhận dung nạp sinh hoạt đồng bóng đã trở nên một hiện tượng quá ư bình thường. Thậm chí bây giờ, sẽ không hiếm gặp những nhà sư cùng tham dự lễ lên đồng, thậm chí cũng mở phủ trình đồng, gia nhập tín ngưỡng như các con nhang đệ tử chính hiệu. Trong bầu không khí đó, nhiều ngôi đình cũng nhanh chóng thức thời với việc xây thêm gian Mẫu phối thờ để thu hút khách thập phương. Hay thậm chí có ngôi đền nọ vốn thờ một đào nương lừng danh đã có công giúp vua Lê chống giặc Minh xâm lược, nay cũng được “Tứ phủ hóa” để làm nơi hầu đồng. Theo đó, ngôi đền được đổi tên thành đền “Mẫu đào nương”, bất chấp Luật Di sản văn hóa. Hiện nay, vị đào nương nghiễm nhiên được coi như một “thánh mẫu” phát sinh. Nói thế để thấy được tín ngưỡng Tứ phủ thời nay có sức phát triển mãnh liệt như thế nào.


Xưa, người ta lên đồng chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tự thân. Thời nay, có nhiều ông đồng bà đồng còn kiêm nhiệm thêm cả vai trò thầy cúng, thầy bói. Điều này lý giải tại sao trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, dạng lên đồng dưới hình thức hầu chứng ngày càng phổ biến hơn so với thời cổ truyền. Ở sinh hoạt dạng này, các gia đình có nhu cầu tâm linh sẽ phải cùng nhau góp tiền sắm sanh đồ lễ và chi trả toàn bộ thù lao cho các bên liên quan. Một quan thầy đồng cựu có uy tín được mời sẽ đứng ra nhận trách nhiệm hầu đồng đại diện, thay mặt các gia chủ mà “thông thiên” với thần linh để cầu tài cầu lộc, giải trừ tai ách, tà ma... Với nhà có người bệnh, chân đồng còn ban cho tàn nhang nước thải để uống, chén nước quết giầu để xoa chỗ đau hay đôi ba lá bùa trấn yểm... Khi nào xong việc, các gia chủ còn phải sửa lễ tạ, nhiều khi khá tốn kém. Có thể thấy, chính sự cấy ghép chức năng thầy cúng, thầy phù thủy... ở hình thức hầu chứng lại là một cách mở lối thu nhập cho các chân đồng. Bởi xưa nay, họ vốn chỉ đóng vai trò chi trả các khoản thù lao cho cung văn và thủ nhang đồng đền mà thôi. Âu đó cũng là một biểu hiện sống động về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người Việt. Cũng trong sự “pha trộn” đó, thời nay trong các vấn hầu của mình, một số chân đồng còn lai cấy hành vi tín ngưỡng của các thanh đồng bên tín ngưỡng thờ đức Thánh Trần. Trong một số giá đồng, họ cũng xiên lình, thắt đai thượng, nuốt lửa hay rạch lưỡi “lấy dấu mặn” nhằm gây ấn tượng mạnh với đám đông tham dự. Đây có thể là hệ quả của việc lai cấy đức Thánh Trần vào điện thần Tứ phủ, một xu hướng mới phát sinh ở một bộ phận chân đồng thời nay, xuất phát từ quan điểm của một số nhà nghiên cứu văn hóa. Vì thế mà hiện nay rất nhiều ông đồng bà đồng bị ngộ nhận, thường tự gọi mình là thanh đồng. Ngoài ra, việc tự nhận “thanh đồng” cũng rất có thể xuất phát từ ý muốn “sang trọng hóa” danh từ, bởi những chân đồng xưa nay thường vốn chỉ được dân gian gọi là đồng bóng hay đồng cốt.

Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh

Thời nay, không phải vô cớ mà giới đồng bóng định danh khái niệm “đồng đua” nhằm chỉ hiện tượng đua đòi háo danh trong tín ngưỡng Tứ phủ, cốt để khoe mẽ thể hiện bản thân mình. Những vấn hầu tốn kém bạc tỷ linh đình là một trong những biểu hiện sống động của những chân đồng dạng này. Gần đây, không hiếm những chân đồng vì mục đích quảng bá nhân thân trong giới bản hội, sẵn lòng bỏ tiền thuê cả một nhóm làm phim lên tận những danh thắng thiên nhiên vùng núi cao. Ở đó, họ tổ chức ghi hình bản thân trong phục trang hầu đồng, thể hiện cảnh các “cô, cậu”, các “chầu thượng ngàn” hay các “quan”, ông “hoàng” rong chơi, du ngoạn vãng cảnh sao cho giống với chuyện thần tiên trong huyền tích các vị thánh. Mỗi đợt như vậy, bầu đoàn thê tử các chân đồng dắt díu nhau trình diễn không khác gì một đoàn làm phim chuyên nghiệp. Sau đó, các trích đoạn được đem về lồng ghép vào những trường đoạn phim quay toàn bộ vấn hầu của họ, những mong các DVD lên đồng sẽ tăng thêm phần hấp dẫn, bắt mắt. Xem ra trong xã hội thời nay, mối quan hệ cung cầu mang tính thương mại giữa thủ nhang đồng đền, cung văn và chân đồng ngày càng trở nên phức tạp hơn. Thị trường các dịch vụ đi kèm cũng vận hành khá sôi động. Thôi thì đủ mọi hiện tượng tốt xấu phát sinh tha hồ nở rộ, được phản ánh rộng rãi trên khắp các mặt báo, như dịch vụ cho thuê quần áo hầu, thuê người hầu dâng, múa phụ họa, làm đồ mã, viết sớ, quay phim, chụp ảnh... Thời xưa, bắc ghế hầu thánh vốn là sinh hoạt tín ngưỡng chủ yếu giành cho giới tiểu thương hay những người giàu. Còn thời nay, như đã nói, trong phong trào phục hưng rầm rộ, thành phần các chân đồng ngày càng mở rộng với đủ mọi đối tượng thành phần gia nhập. Bởi vậy, những hiện tượng khuynh gia bại sản, tan cửa nát nhà... vì đua nhau hầu đồng là một hệ quả tất yếu, đã được phản ánh nhiều trên báo chí. Nhớ lại thời kỳ đầu thế kỷ 20, ở Hà Nội cũng có những chân đồng phải lần lượt bán sạch gia sản để lo việc hầu thánh. Câu chuyện khá bi thảm với việc chân đồng tự tử, kết thúc cuộc đời tín ngưỡng mê đắm. Ở đây, có người lý giải rằng chân đồng tìm đến cái chết do phá sản. Nhưng với trường tự kỷ của một tín đồ tâm linh cực đoan, cũng có người coi đó là sự “tự giải thoát” để về miền vĩnh hằng theo hầu Mẫu Tứ phủ! Nhưng dù bằng cách nào thì đó vẫn thực sự là một bài học đắt giá, đáng cho người đời nay phải suy ngẫm!


Với bản chất tín ngưỡng đa thần mang đậm tính thương mại, hệ thống các đền phủ thời nay đua nhau trùng tu, sửa sang đắp điếm, sơn son thiếp vàng, trang hoàng lộng lẫy.., cốt sao bắt mắt giới con nhang đệ tử cũng như thu hút khách thập phương về hành lễ. Có thể chính điều này phần nào khởi nguồn cho phong trào trùng tu bừa bãi, phô trương quá mức, đến độ thay đổi toàn bộ cảnh quan di tích, bất chấp Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh của Nhà nước. Điều đáng nói là ở các cơ sở tín ngưỡng Phật giáo, phong trào tân trang chùa chiền trong nhiều năm gần đây cũng trở nên xô bồ. Cái tâm lý to hơn, mới hơn, đẹp hơn, cầu kỳ hơn... của phong trào xây cất đắp điếm bên ngoài cũng lan cả vào nơi cửa thiền. Nào là những chùa cao tầng với những vật liệu mới lạ, đắt tiền, nào là tượng Phật lớn nhất, vườn tượng lớn nhất, bảo tháp cao nhất, những sư tử Tàu, sư tử Pháp, đèn đá Nhật Bản, đèn lồng đủ loại... thi nhau nở rộ khiến những nhà quản lý di tích trở nên bất lực. Những hiện tượng “diêm dúa hóa” di tích đó đã từng được phản ánh trên báo chí, và cũng từng gặp phải phản ứng quyết liệt của chính những chủ nhân nơi thờ tự. Đây thực sự được xem như một vấn nạn với giới bảo tồn văn hóa, như một thách thức mới mang tính... thời đại! Đáng chú ý, bên cạnh việc phối thờ Mẫu trong đình, chùa, ở chiều ngược lại, cũng có ngôi đình đã làm thêm những chỗ thờ Phật ngoài sân giời, cổng đình hay gốc đa đầu làng, bất chấp nghịch lý “Thánh hơn Phật”. Có lẽ ban quản lý mong muốn tạo được diện mạo hoành tráng tối đa với nhiều ban bệ đặt lễ hơn cho khách thập phương chăng? Âu đó cũng là sự biểu hiện bản chất hỗn dung tín ngưỡng nói chung của người Việt. Có điều thời nay, xem ra sự hỗn dung đã trở nên một “nồi lẩu tâm linh” pha trộn, phát sinh, biến tướng đủ mọi kiểu dạng, ngày càng đi theo chiều hướng không mấy tốt đẹp.


3-Đôi điều kiến giải...

          Nhìn suốt chiều dài lịch sử, từ tín ngưỡng đa thần bản địa, người Việt dần chuyển sang đa nguyên tôn giáo tín ngưỡng. Sẽ thấy trong sự tích hợp đa tâm linh, truyền thống hỗn dung của người Việt được xem như một đặc điểm cơ bản. Ở đây, sự pha trộn đan xen có lẽ chủ yếu dựa trên nguyên tắc dung hợp thực dụng, bất luận các hệ thống giáo lý, triết thuyết, quan niệm của những tôn giáo, tín ngưỡng có mâu thuẫn với nhau như thế nào. Liệu truyền thống đó có phải sự biểu hiện một phần tính cách dân tộc Việt? Tạm thời, hãy coi đó là sự hồn nhiên tín ngưỡng người Việt. Một sự “hồn nhiên” tiếp nối từ truyền thống xưa của ông cha. Trải theo thời gian với quá trình hỗn dung tiếp biến, pha trộn và lai tạp, thế giới tín ngưỡng người Việt giờ đây đã trở nên như một mớ bòng bong hỗn độn, chằng chịt các mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa cõi dương gian và thế giới âm ty địa phủ...
          Trong lịch sử loài người, nói chung tôn giáo tín ngưỡng trước hết là những sáng tạo tinh thần, xác định những hệ tư tưởng, đạo đức trong sự hình dung, tưởng tưởng về một thế giới siêu hình chi phối đời sống trần gian. Sẽ thấy bất cứ hình thái nào, vì là sáng tạo của con người nên tất chịu ảnh hưởng bởi bối cảnh lịch sử- xã hội, không gian văn hóa và đặc biệt mặt bằng tri thức cộng đồng đã sinh ra nó. Ví như hệ thống “thiên đình- cõi trời” tưởng tượng mà tín ngưỡng người Việt “ngưỡng vọng” trên thực tế là sự mô phỏng nguyên mẫu bộ máy hành chính triều đình phong kiến, gắn bó hữu cơ với hệ tôn giáo du nhập từ Trung Quốc. Nói cách khác, đó cũng chính là sự giới hạn trí tưởng tượng của con người khi sáng tạo ra thế giới siêu hình nói chung. Ở thời kỳ khoa học chưa phát triển, mọi kiến giải về vũ trụ, về thế giới của các tôn giáo tín ngưỡng như cõi trời, thiên đình, thiên đàng, Tây phương cực lạc, cõi âm ty, địa phủ, địa ngục, hỏa ngục, thủy cung... đều tỏ ra “hợp lý” với niềm tin tâm linh duy ý chí. Những câu chuyện lịch sử về việc tòa án giáo hội Thiên chúa xử tử những nhà khoa học dám chứng minh ngược với học thuyết của mình là những ví dụ điển hình. Dường như khoa học càng phát triển bao nhiêu, mọi giá trị siêu hình cổ xưa sẽ càng bị triệt tiêu bấy nhiêu bởi sự lỗi thời của nó. Thời nay, khi khoa học đã xác định ngôi nhà chung loài người trong trái đất tròn xoay quanh mặt trời.., có lẽ các tôn giáo tín ngưỡng cũng buộc phải xét lại “vũ trụ quan, thế giới quan” của riêng mình, vốn ra đời trong trí tưởng tượng từ thời xa xưa.
          Trong sự sáng tạo các thánh thần của thế giới siêu hình, không hiếm những trường hợp mà nhân vật thờ phụng trên thực tế vốn là những sáng tạo văn học, nhưng về sau được “hiển thánh hóa” trong sự lan tỏa của tâm thức dân gian. Chuyện biến hư thành thực, biến cái siêu hình thành hữu hình, âu đó cũng là bản chất của thế giới tâm linh nói chung. Ví dụ tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, trải theo thời gian, những Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới... trong tác phẩm rút cục đã được “hiện thực hóa” một phần trong đời sống tâm linh người Việt. Cụ thể, có những lưu phái đạo phù thủy ở miền Trung đã mặc nhiên đưa Tôn Ngộ Không trở thành một trong những vị thánh trên hệ thống điện thần của mình để thờ phụng. Ngày nay, không hiếm ngôi chùa Việt tiếp tục đưa những hình ảnh của Tây Du Ký vào các bức chạm khắc mới, như một sự tiếp tục thừa nhận “tính thiêng” các nhân vật của Ngô Thừa Ân. Thậm chí trong lần tổ chức dùng chuyên cơ rước “xá lị” Phật về Việt Nam, một vị đại đức đã chính thức tuyên bố rằng: “Đây quả là điều kỳ diệu, xưa Đường Tăng mất sáu năm để đến được đất Phật, nay các vị thực hiện điều đó chỉ trong vài giờ đồng hồ bằng cả một chuyến bay riêng". Chưa biết những viên xá lị đó liệu có phải là đồ thật hay không nhưng câu chuyện đã phản ánh một niềm tin chân thành- sự tâm linh hóa những nhân vật văn học điển hình Trung Quốc. Đứng trên góc độ sáng tạo tâm linh, sẽ còn vô vàn những ví dụ phản ánh sự hồn nhiên của loài người trong việc xây dựng, bồi đắp hệ thống tôn giáo tín ngưỡng nói chung.
          Một chuyện khác, nếu như ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc, Quan Thế Âm Bồ Tát được xác định là vị Phật bà thì ở Tây Tạng, ngài lại là... Phật ông, được tôn vinh như quốc tổ (cha đẻ) của người Tây Tạng. Cho đến ngày nay, nhiều cao tăng Tây Tạng vẫn được xem là hiện thân của Quán Thế Âm, trong đó có vị Gyalwang Drukpa vừa sang thăm Việt Nam năm 2011. Ở đây, không biết giới chư tăng Phật tử Việt Nam lúc chắp tay vái ngài Gyalwang Drukpa sẽ nghĩ gì so với việc hành lễ trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trong Tam bảo, ngoài sân chùa? Rồi không biết sự “hiện thân” của đức Phật (ông/bà) ở đây liệu có giống với sự hóa thân tưởng tượng kiểu các chân đồng Tứ phủ? Tham vấn một số tín đồ Phật tử, được giải thích rằng đức Quan Thế Âm Bồ Tát là một cái gì đó rất to lớn, có thể hóa thân thiên hình vạn trạng, không có gì mâu thuẫn(!) Có lẽ trong tín ngưỡng tôn giáo nói chung, niềm tin là một động lực mạnh mẽ đủ để biến hư thành thực, không thành có, phi lý thành có lý. Thế nên mọi sự đều có thể dễ dàng chấp nhận nếu như thuận với ý thức chủ quan của niềm tin tâm linh. Xin được nhắc lại, một thế giới ảo được “hiện thực hóa” bởi niềm tin hồn nhiên của con người vốn là căn cốt của tôn giáo tín ngưỡng. Ở đây, cuộc vật lộn giữa tin/không tin cùng cái tâm lý bán tín bán nghi dường như luôn đồng hành suốt chiều dài lịch sử loài người. Tôn giáo, tín ngưỡng dù có mâu thuẫn và đối kháng như thế nào nhưng vẫn song song tồn tại với đầy đủ vẻ hợp lý và bất hợp lý của chính nó. Anh tin điều anh chọn, tôi tin điều tôi biết, cuộc sống tự do tín ngưỡng cũng giống như nghệ thuật vậy, sao cũng được, miễn là thỏa mãn được nhu cầu thụ hưởng tinh thần. Tín ngưỡng tôn giáo suy cho cùng cũng giống như phong tục, mọi hành vi thường lặp lại như thói quen lâu đời, bất luận sự hợp lý đến đâu.


          Từ bao đời nay, các giá trị tâm linh không chỉ mê hoặc người nghèo, mù chữ thất học mà còn xâm nhập mạnh mẽ các tầng lớp thượng lưu, tri thức, quan chức... Điều đó là một minh chứng về sức mạnh nghìn đời của tôn giáo, tín ngưỡng. Nhớ lại nhận định nổi tiếng của Các Mác coi tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Sẽ thấy ở góc độ tâm lý, tín ngưỡng tôn giáo rõ ràng đem lại một sức mạnh niềm tin lớn lao cho con người. Xét cho cùng, chỗ dựa tinh thần là một chân lý vững chắc đủ để các hình thái tín ngưỡng tôn giáo có thể trường tồn cùng với lịch sử nhân loại. Có thể nói, dù đối tượng của niềm tin là những giá trị ảo nhưng trên thực tế đã mang lại cho con người nhiều giá trị tinh thần không thể phủ nhận. Đó là chưa kể về bản chất, mỗi tôn giáo lớn trên thế giới đều có giá trị như một hệ triết thuyết, hệ đạo đức lớn, hướng con người tới một niềm tin vào cuộc sống tươi đẹp. Sự xoa dịu nỗi đau trần thế, niềm tin vào sự trở che của đấng tối cao... rõ ràng tạo nên một tiềm thức dạng trường ám thị, kích thích con người gia tăng sức mạnh tinh thần. Từ đó có thể phát huy tối đa sức mạnh nội tại trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn ở một thế giới hỗn độn với biết bao sự bấp bênh, trắc trở. Điều này tỏ ra hợp lý khi nhận định xã hội càng bất ổn định bao nhiêu, con người lại gia tăng nhu cầu tâm linh tín ngưỡng bấy nhiêu. Bởi vậy, lịch sử tôn giáo tín ngưỡng mọi thời đại phần nào như tấm gương phản ánh tâm thế con người trong mọi thời đại. Thế sự thăng trầm lúc thịnh lúc suy, niềm tin con người dường như không thoát khỏi những ràng buộc tâm linh, vốn đã có từ ngàn xưa. Nó giống như một nỗi sợ hãi nguyên thủy trường tồn ám ảnh, khiến con người dễ mất khả năng tự tin, buộc phải tìm chỗ bấu víu ở tôn giáo tín ngưỡng.
          Cũng cần phải thấy rằng, thuốc phiện có thể giảm đau, kích thích sự thăng hoa hứng khởi nhưng đồng thời nó cũng là chất gây nghiện không dễ gì từ bỏ khi đã đắm đuối trong trường ảo giác. Trong niềm tin tôn giáo tín ngưỡng, sự sùng bái những cá nhân thánh thần (hoặc con người được thần thánh hóa), suy tôn ngưỡng vọng những điều siêu thực, tưởng tượng... khiến con người dễ bị rơi vào tình trạng thái quá, cực đoan, duy ý chí với thế giới siêu hình. Theo đó, họ dễ bất chấp những quy luật tự nhiên hay xã hội, khó chấp nhận những ý kiến trái chiều mang tính phản biện, thường quy cho là sự báng bổ thánh thần. Hiểu điều đó, mới thông cảm được cho mọi hiện tượng bất bình thường ở đời sống tâm linh nói chung. Ở đây, khoảng cách giữa đức tin cao cả vào thế giới vô hình cũng như sự mê muội, cuồng tín ở những điều dị đoan không tưởng có lẽ cũng chỉ trong gang tấc, dễ bị đánh lận con đen. Đây chính là tính 2 mặt của tôn giáo tín ngưỡng nói chung, khiến cho nó trở nên rất dễ bị lợi dụng. Trong lịch sử, việc các thế lực tăng lữ mượn tôn giáo tín ngưỡng như một phương tiện để thỏa mãn lợi ích riêng, từ những tham vọng chính trị cho đến những dục vọng thấp hèn là điều đã được minh chứng. Điều này lý giải cho mọi sự xung đột tôn giáo, tàn sát đẫm máu lẫn nhau trên thế giới. Đáng chú ý, cuộc chiến không chỉ xảy ra giữa các tôn giáo với nhau mà còn ở cả nội bộ một tôn giáo, khi có sự chia tách thành các giáo phái khác nhau. Thử hỏi với bản chất cao đẹp của hệ đức tin, tại sao người ta có thể hành xử mâu thuẫn với chính giáo lý, đạo đức của tôn giáo mà họ phụng thờ? Tại sao có những kẻ tu hành lại có thể ngang nhiên buôn thần bán thánh để mưu cầu vật chất, trục lợi cá nhân hay thậm chí kích động nổi loạn gây hấn chính trị trong xã hội? Nếu hiểu được nhận định vĩ đại của Các Mác, sẽ không mấy khó khăn để tìm câu trả lời.
          Vài kiến giải như vậy để có thể thấu hiểu thêm truyền thống hỗn dung tôn giáo tín ngưỡng của người Việt. Một mặt, sự tích hợp pha trộn, dung hòa tâm linh phần nào giảm thiểu những xung đột tôn giáo tín ngưỡng không đáng có. Mặt khác, sẽ thấy trong bản chất “thuốc phiện tinh thần”, “nồi lẩu” tôn giáo tín ngưỡng thời nay tựa hồ như một dạng “ma túy tổng hợp” bất công thức, in đậm tính thực dụng nguyên thủy từ ngàn xưa, tất sẽ gây nên những hệ lụy tương ứng. Hiện nay khắp nơi đua nhau phục dựng lễ hội, kể cả những hành vi mà đa số người thời nay khó chấp nhận. Ví như việc chém đứt đôi con lợn hiến sinh rồi tranh nhau bôi máu vào tiền, dẫm đạp tranh giành vật phẩm lộc thánh... hay những cổ tục cho phép, tôn vinh hành vi đả thương “mang tính thiêng” như sự đề cao “tinh thần thượng võ”, bất luận gây đổ máu... Trong Hội Gióng năm 2011, khi hành lễ đã có người bị chấn thương sọ não phải đưa đi cấp cứu. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu tước bỏ tục đả thương, hẳn những “chủ thể văn hóa” sẽ khó chấp nhận vì bị coi là... mất thiêng! Hiện nay, cái cảm giác kinh hoàng sẽ là điều không thể tránh khỏi khi quan sát toàn cảnh đời sống tâm linh tín ngưỡng mỗi mùa lễ hội. Đây là bài toán quá khó cho các nhà quản lý. Lâu nay chúng ta thường kêu gọi hãy trả lại các lễ hội về cho người dân- tức những chủ thể văn hóa. Thế nhưng cũng đến lúc cần xác định rõ, với hiện trạng “tín ngưỡng trí” như hiện nay, dù người dân địa phương hay chính quyền đứng ra tổ chức thì cũng đến vậy mà thôi. Chả nhẽ người dân tổ chức thì các lễ hội sẽ trở nên tốt đẹp, nhân văn và không còn hiện tượng tiêu cực nữa hay sao? Thật khó mà tin vào điều đó! Chưa kể đến việc khái niệm chủ thể văn hóa ở đây nhiều khi còn không phân biệt nổi. Như hành vi bày bán thịt chó giả nai... ngồn ngộn công khai ở chùa Hương, đó là ý đồ của chủ thể tín ngưỡng nơi cửa thiền hay là của người dân Hương Sơn? Cũng như việc thu tiền cúng sao giải hạn, bán phiếu công đức, bán sớ... cùng nhiều dịch vụ tâm linh khác ở các ngôi chùa lớn, liệu có phải do chính quyền địa phương quy định hay là chủ đích của những nhà sư trụ trì? Vấn đề này bàn đến nhạy cảm lắm bởi sự đòi hỏi một cuộc chấn hưng có tính toàn bộ ở hệ thống các cơ sở tín ngưỡng công cộng. Về mặt quản lý nhà nước, có khá nhiều việc nan giải để lập lại công bằng xã hội. Ví như việc kiểm soát các nguồn thu siêu lợi nhuận ở các cơ sở tín ngưỡng như chùa chiền, đền phủ cũng như việc xử lý nguồn thu nhập cá nhân của các loại thủ nhang, thầy cúng, thầy bói, thầy phù thủy, thầy địa lý, cô hồn, đồng cốt... Đây là bài toán mà chắc hẳn các nhà quản lý còn phải “bó tay” lâu dài. Bởi có một thời chúng ta đã cấm mà không xong. Nhưng giờ đây nếu quy hoạch, đánh thuế thu nhập thì có nghĩa Nhà nước mặc nhiên công nhận buôn thần bán thánh cùng các dịch vụ tâm linh như một ngành nghề chính thức trong danh mục. Còn nếu không kiểm soát nổi, coi như chúng ta tiếp tục chấp nhận thả nổi hàng loạt nghề thu nhập bất hợp pháp, làm giàu trên sự mê hoặc, lợi dụng niềm tin, thuộc tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân. Xem ra, trước mắt cần nhanh chóng xây dựng một chương trình giáo dục văn hóa tâm linh có hệ thống trên các phương tiện truyền thông với sự góp mặt của các nhà chuyên môn, mới mong tìm được lối thoát!


4-Vĩ thanh...

          Thay cho lời kết, xin thuật lại những gì mà học giả Phan Kế Bính đã mô tả về đời sống tâm linh người Việt giai đoạn cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20 trong tác phẩm Việt Nam phong tục. Bàn về đời sống tín ngưỡng nơi cửa thiền, ông viết “Hiện bây giờ Phật giáo ở nước ta cũng đã suy. Tuy lưu truyền đã lâu, làng nào cũng có chùa thờ Phật, dân gian vẫn còn cúng bái sùng phụng, nhưng chẳng qua là bọn ngu phu, ngu phụ theo thói quen mà cúng vái chớ kỳ thật không mấy người là mộ đạo. Trừ ra mấy kẻ bực đời đi tu, còn phần nhiều là bọn ăn bơ làm biếng, trốn chúa lộn chồng, mượn cửa Bồ đề mà nương thân. Còn bọn hạ lưu xã hội, mê tín sự báo ứng, thì toàn là bọn ngu xuẩn, thấy na-mô thì cũng na-mô, thấy sám hối thì cũng sám hối, còn hiểu gì là đạo Như Lai nữa. Huống chi lại còn nhiều kẻ tính tình rất hung bạo mà cũng mượn cửa thiền để làm nơi trú ẩn. Tiếng là đi tu, mình mặc áo cà sa, đầu đội nón tu lư, tay lần tràng hạt, mặt giả dạng từ bi, mà bụng dạ thì như rắn rết, nào rượu ngon, nào gái đẹp, nào thịt chó hầm hoa sen, nào thịt lợn viên nhỏ làm thuốc đau bụng, nào quần áo xà ích. Na mô một bồ dao găm, hổ mang hổ lửa, sự ấy mới lại ghê gớm nữa”[1]. Mô tả hội các vãi già (Hội chư bà), vốn là những Phật tử gắn bó thường nhật với mọi ngôi chùa, Phan Kế Bính đã chua xót than rằng “các vãi có khi kính nhà sư hơn cha mẹ sinh ra”[2], “động nói là nam mô, động đi đâu là lạy chín phương trời, mười phương chư Phật. Có người già cả yếu đuối cũng cố bò lê đến cửa chùa khấn la khấn liệt, lạy lấy lạy để, ấy thực là một điều mê tín của đàn bà ta, mà không ích gì cho đến mình cả… Song điều đó chẳng nên trách gì các bà già, chỉ vì nữ giới nước ta không có học thức mà thôi, mà đàn bà không có học thức, cũng bởi cách giáo dục chưa rộng vậy”[3]. Về bói toán, ông nhận định “nước ta tin việc quỷ thần, cho nên cũng theo cách Tàu mà chuộng việc bói toán”[4]. Với các lực lượng thầy cúng, phù thủy Đạo giáo, Phan Kế Bính không ngần ngại khẳng định “bọn này thì cũng chẳng qua theo thể thức cũ, bùa bèn ấn quyết, trừ ma trừ quỷ, dùng cách ấy để làm nghề kiếm ăn trong vòng hạ lưu xã hội, chớ kỳ thực thì không biết tôn chỉ Đạo giáo là gì…”[5]. Về đạo phủ thủy dân tộc, Phan Kế Bính nhận định “phù thủy là một thuật huyền ảo, xưa nay không có ích gì cho việc đời… Còn như các thầy phù thủy chẳng qua mượn tiếng thần thánh, làm bộ tay ấn tay quyết, trừ quỷ trừ ma, lừa kẻ ngu đần để làm nghề kiếm ăn”[6]. Riêng với các thanh đồng chuyên sát quỷ trừ tà chữa bệnh, ông cho rằng “trừ tà chữa bệnh là một việc rất vô lý, chẳng qua là kẻ ngu xuẩn bày đặt ra mối dị đoan, mà lừa dối những bọn vô tri vô thức, để làm nghề kiếm ăn mà thôi”[7]. Khái quát toàn bộ sinh hoạt đồng cốt phù thủy, ông kết luận “Than ôi, đạo phù thủy cùng là đạo đồng cốt còn thịnh hành ngày nào thì dân trí còn ngu xuẩn ngày ấy. Bao giờ trong nước tuyệt hẳn được cái mối ấy thì mới có cơ khôn ngoan cả được”[8]. Một thế kỷ đã trôi qua, song bức tranh toàn cảnh đó hẳn đáng để người đời nay so sánh, chiêm nghiệm và suy ngẫm lắm!

                                                                                

[1] Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1997, tr.173.
[2] Phan Kế Bính, sđd, tr.143.
[3] Phan Kế Bính, sđd, tr.144.
[4] Phan Kế Bính, sđd, tr.219.
[5] Phan Kế Bính, sđd, tr.174.
[6] Phan Kế Bính, sđd, tr.234.
[7] Phan Kế Bính, sđd, tr.236.
[8] Phan Kế Bính, sđd, tr.241.

Nguồn: http://dzunglam.blogspot.com/2012/08/lan-man-ve-truyen-thong-hon-dung-tin_6.html

PHONG TRÀO TẨY CHAY HOA KIỀU Ở VIỆT NAM NĂM 1919 (qua nguồn tư liệu báo chí đầu thế kỷ 20)*

                                                                                                          Đặng Thị Vân Chi * Đặt vấn đề T...