Shawn Fredrick Mc Hale ( Dissertation, Cornell University)
Người dịch: Đặng Thị Vân Chi ( Do hạn chế của người dịch, bản dịch chắc chắn còn nhiều thiếu sót, mong được các bạn góp ý kiến để bản dịch được tốt hơn. Làm ơn xin dẫn nguồn khi sử dụng. Xin cám ơn)
Lời nói đầu
Văn hoá in ấn Việt Nam - sức mạnh và lịch sử. Một số chú giải.
Việt Nam từ lâu đã được biết đến là quốc gia có một truyền thống văn tự với chữ Hán và chữ Nôm. Những tài liệu này gồm rất nhiều thể loại và hình thức tài liệu như bia kí, kinh Phật, sách đạo đức Nho giáo, địa bạ, thơ, đài kỉ niệm, triết lý, sử học và các tài liệu địa lý. Nhưng bất chấp sự phong phú của các tài liệu chữ viết này, việc lưu hành và xuất bản chúng bên ngoài nhà nước cho tới đầu thế kỉ XX thì còn rất hạn chế. Thế kỉ XX có một sự chuyển biến lớn trong việc lưu hành và xuất bản các văn bản, một sự chuyển biến tạo nên đối tượng của nghiên cứu này.
Giữa năm 1920-1945, việc sử dụng tài liệu ấn phẩm trong xã hội Việt Nam có bước đột biến, và trong quá trình phát triển nó trở nên gắn bó chặt chẽ với nhau, với cách mà người Việt Nam nghĩ về bản thân mình và thảo luận về những vấn đề chung của họ. Luận văn này vừa kiểm tra cách mà những thay đổi này mang lại và phân tích cách sử dụng ấn phẩm tăng lên bắt đầu thay thế cách truyền miệng các khái niệm và sự mở mang hiểu biết. Sự hiểu biết về những thay đổi này là điều cốt yếu để hiểu biết đầy đủ về lịch sử Việt Nam hiện đại, đã từng bị bóp méo bởi đã tập trung vào sự phát triển về chính trị và quân sự mà bỏ qua việc nghiên cứu những chủ đề không kém phần quan trọng.
Sự mở rộng việc xuất bản và sự phát triển của “nền văn hoá in ấn” được gắn chặt với sự chinh phục của Pháp ở Việt Nam vì sự thúc đẩy lớn nhất cho việc lưu hành chữ la tinh đến từ các quan chức thuộc địa và các nhà truyền giáo. Nhưng vào những năm 1920 và 1930, thành viên của giới trí thức Việt Nam đã sử dụng chữ in cho việc thảo luận về tôn giáo ( Cao Đài, Phật giáo), triết học, gia đình, địa vị của phụ nữ cũng như tìm kiếm những điều kém tao nhã như xuất bản các sách nấu ăn hay việc quảng cáo). Chỉ riêng lý do này, việc nghiên cứu sự phát triển của việc xuất bản và sự phát triển của văn hoá in ấn đã có giá trị. Nhưng thậm chí nó còn có giá trị hơn nếu đặt những phát hiện như vậy vào trong khung cảnh rộng hơn. Những điều mơ hồ đã dẫn dắt Roger Charrtier đến phát hiện của ông về chế độ cổ đại Pháp đã dẫn dắt tôi ở chỗ: Làm thế nào “sự phát triển của việc phát hành ấn phẩm văn bản đã làm thay đổi các hình thức giao tiếp xã hội, làm thay đổi cách suy nghĩ và thay đổi những quan hệ quyền lực”(1).
Việc in ấn và việc xuất bản chiếm một vị trí trung tâm cả trong việc thực hành quyền lực nhà nước lẫn chống lại quyền lực đó. Chính quyền thuộc địa Pháp cần rất nhiều tài liệu in ấn (mẫu đơn từ, hoá đơn, báo cáo) để hoạt động một cách trôi chảy. ( Có người đã cho rằng chính phủ thực dân cần giấy nhiều như vũ khí để giữ người dân dưới sự kiểm sóat của họ).
Chúng ta đã giảm bớt sự phức tạp của quá khứ và xoá bỏ dĩ vãng của những tiếng nói đó nếu chúng ta đặt tất cả sự kiện ở Việt Nam thuộc địa trong khung cảnh của việc khẳng định quyền lực nhà nước cũng như việc chống lại quyền lực đó.
Người Việt Nam đã chống lại chủ nghĩa đế quốc văn hoá Pháp. Khung cảnh trong quá khứ của người Việt chỉ giới hạn trong sự kháng cự và hợp tác, dù có giảm bớt những giới hạn này đến đâu. Hầu hết mọi hành động không làm giảm bớt sự đối lập phân đôi như vậy.
Việc sử dụng chữ in làm sáng tỏ những điểm trên. Ấn phẩm, một vũ khí lợi hại cho sự nô dịch hoá và thực dân hoá, được sử dụng để chống lại nền thống trị của Pháp. Nhưng người Việt Nam cũng sử dụng nó trong vô số những mục đích khác. Từ sự thử nghiệm các loại hình văn học tới việc bán thuốc.
Xuât bản phẩm giới thiệu người Việt Nam với một thế giới mới chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tư tưởng hiện đại ( Về vải vóc, hôn nhân, tình yêu và cách mạng...) những điều được du nhập vào Việt Nam từ Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc. Người Việt Nam bắt đầu đọc Kinh Phật bằng chữ quốc ngữ nhiều hơn chữ Hán và những văn bản này thường được in ấn, bắt đầu vươn tới số độc giả ngày càng được mở rộng. Đối mặt với sự tấn công lớn vào Nho giáo như một triết học chính trị, và một sự mê hoặc ngày càng lớn với bất cứ điều gì “mới’, phụ nữ và nam giới bắt đầu đau khổ trong các sách in về số phận của gia đình Việt Nam.
Việc sử dụng sách in là cuộc cách mạng theo nhiều cách khác nhau. Nó là chìa khoá để mở ra những cuộc đàm luận về tôn giáo, chính trị và xã hội của người Việt Nam. Nhờ có các ấn phẩm từ áp phích, pa nô và các quyển sổ tay tới báo chí, và các nhà văn đều liên quan tới cuộc thảo luận, giới thiệu những khái niệm mới với người khác và sáng tạo cái mà Bêndict Andeson coi như một cộng đồng giả định của những con người có cùng tư tưởng. Nhờ có chữ in mà những cuộc thảo luận mới đã được hình thành một cách rộng rãi - ví dụ, cuộc thảo luận về chính trị bằng tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc. Những cuộc thảo luận này có cội nguồn từ những bài viết nhiều hơn là bài nói ( trừ một nhóm nhỏ) cho tới khi chúng đánh mất tính cách ngoại lai của chúng và được phát hành ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Cuộc đối thoại này tôi đồng ý là không luôn luôn giới hạn trong một nhóm nhỏ người Việt, những người có văn hoá vì bài viết thỉnh thoảng có thể đọc to cho những người thất học nghe và những tư tưởng có thể chia sẻ với những người không biết đọc. Không nghi ngờ gì là nhiều cuộc tranh luận đã được tiến hành trên báo chí ở Sài Gòn như cuộc tranh luận giữa những người Trôt kit và những người chỉ trích họ có một sức lôi cuốn nhất định. Nhưng trên một mức độ chủ yếu hơn, việc sử dụng chữ in có một hiệu quả cả về việc nó mang đến tin tức của Sài Gòn, Hà Nội và những nơi khác trên thế giới tới độc giả, cung cấp những tin tức nông nghiệp cũng như giúp đỡ tín đồ Phật giáo và các nhóm tôn giáo khác như Cao Đài mở rộng ảnh hưởng của họ.
Những thay đổi lâu dài của chữ in thì to lớn. Mặc dù một vài tư tưởng đầu tiên xuất hiện trên ấn phẩm nhanh chóng bị quên đi, những tư tưởng khác còn lại đầy quyến rũ và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử Việt Nam. Quan trọng hơn Việt Nam đã phát triển một lĩnh vực công khai chống đối một cách mạnh mẽ từ sự thống trị của nhà nước. Và văn hoá in ấn, được bắt đầu phát triển một cách đầy đủ trong những năm 1920 và 1930 trở thành di sản bền vững từ thời kì này. Ngày càng nhiều người Việt Nam đã chuyển từ phương pháp truyền miệng sang việc sử dụng ấn phẩm.
Ý nghĩa nhận thức của việc nghiên cứu văn hoá in ấn
Hai thập kỉ trước, các nhà sử học châu Âu và châu Mỹ quan tâm trở lại việc xuất bản và in ấn, chuyển từ sự quan tâm sưu tầm đồ cổ đối với văn bản chữ in sang việc xem xét lại mối quan hệ giữa việc đọc, viết, xuất bản và quyền lực. Tuy nhiên, ngoài cuốn sách bị gián đoạn“ Nguồn gốc của chủ nghĩa dân tộc Malây” của William Roff (1967), có ít công trình tập trung vào mối quan hệ giữa in ấn và sự biến đổi xã hội trong lịch sử Đông Nam á. Những điều được viết có khuynh hướng tập trung quá tỉ mỉ và quên đặt vấn đề xuất bản trong một khung cảnh chính trị, kinh tế và xã hội rộng lớn hơn.
Văn hoá in ấn là một khái niệm đầy mơ hồ. Trong luận văn này tôi theo định nghĩa đầy am hiểu về nhân loại học của Roger Chartier. Theo ông ta, văn hoá in ấn có hai đặc trưng cơ bản: một mặt khái niệm được cho là sự thay đổi sâu sắc được tạo ra trên tất cả mọi địa hạt của đời sống cá nhân cũng như cộng đồng bởi sự phát hiện và tiếp đến là công dụng đa năng của kĩ thuật mới cho việc sao chép lại các bài viết. Đối với định nghĩa truyền thống này, Chartier cộng thêm ý nghĩa thứ hai:
“Nhưng văn hoá in ấn cũng được hiểu trong ý nghĩa hẹp hơn như toàn bộ hành động mới được phát lại trong ấn phẩm có hình ảnh và được viết lại dưới hình thức mới. Không có cách duy nhất để đọc, nói riêng, mọi khía cạnh đều có thể dùng làm đối tượng của ấn phẩm : hội hè, lễ nghi, thờ cúng, nghĩa vụ và giáo dục được sử dụng từ tập hợp ban đầu được giả thiết nhờ việc giải mã tập hợp... Với việc xuất bản, đội ngũ những người sử dụng tài liệu in ấn ngày càng tăng, và như một kết quả tất yếu, tạo ra mạng lưới chuyên gia thực hành có thể chỉ rõ nguồn gốc của văn hoá”.
Trong những công trình khác, định nghĩa thứ hai về văn hoá in ấn đã giúp chúng tôi vượt lên sự liên quan một cách tốt nhất là sao lại các bài luận. Nó tập trung sự quan tâm vào việc làm thế nào những thay đổi trong mối quan hệ giữa một bài luận với độc giả và bạn đọc của nó đã làm biến đổi một cách sâu sắc đời sống xã hội. Từ một phân tích tranh cổ động , áp phích, báo chí và ấn phẩm khác và ảnh, sự phân tích như vậy có thể giúp chúng ta hiểu tốt hơn loại hình nổi bật về khả năng xã hội mà một văn hoá xuất bản mới ủng hộ và nuôi dưỡng. Triển vọng lý thuyết của Chartier về ấn phẩm đã ảnh hưởng lớn đến cách tiếp cận của tôi đối với việc sử dụng ấn phẩm ở Việt Nam. Nhưng như bài luận này đã chỉ ra, việc sử dụng ấn phẩm ở Việt Nam khác về chất so với việc sử dụng ấn phẩm ở Pháp thế kỉ XVIII.
Những nhà Đông Nam á và các sinh viên dân tộc chủ nghĩa có lẽ băn khoăn tại sao tôi dùng thuật ngữ “ văn hoá in ấn” khác với ghi chép của Benect Anderson về “ chủ nghĩa tư bản in ấn”. Anderson đã tạo ra thuật ngữ sau trong cuốn sách của ông về “những cộng đồng tưởng tượng” để giải thích sự nổi lên của chữ in và mối liên hệ của nó với những phong trào quốc gia mới. Như luận văn này gợi ra “ chủ nghĩa tư bản in ấn” là một thuật ngữ quá hạn chế. Nó không thể dùng để biểu thị đặc trưng của việc sử dụng chữ in trong cả cuộc thảo luận về tôn giáo lẫn không tôn giáo hoặc trong cả việc xuất bản hợp pháp lẫn không hợp pháp. Ví dụ, lô gic là những nỗ lực của các nhà sư trong việc xuất bản kinh Phật và các báo tôn giáo chắc chắn không phải là vì lợi nhuận mà là mong ước được đền ơn. Hơn nữa nó không hoàn toàn rõ ràng cái gì là lợi nhuận tư bản đối với việc sử dụng ấn phẩm trong các phong trào cách mạng và những nhà dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việc phân tích văn hoá in ấn có vị trí quan trọng trong lịch sử trí thức và xã hội. Nó thách thức một khuynh hướng nổi bật trong lịch sử trí thức và phê bình văn học, tâm điểm của bài luận là sự bất lợi của việc hiểu biết bối cảnh. Trong luận văn này, tôi coi những công trình nền tảng của tôi như những công trình của Harry Harootunian, một đại diện của cái thông thường được gọi là bước ngoặt về ngôn ngữ trong lịch sử. Trong những điều đã biết và chưa biết : cuộc đàm luận và lý thuyết ở chủ nghĩa bản địa ưu việt Tokugaoa.(1988) Harootunian đã giải thích cách tiếp cận nghệ thuật diễn kịch của ông: Chiến lược mới được thảo luận vì định nghĩa tham khảo này đối tượng của việc nghiên cứu là các bài luận hơn là quá khứ, mà có thể không bao giờ được biết. Chúng cũng cho phép chất vấn những bài luận vì sự tham vấn mà chúng là hiện thân của phong trào, chúng xuất hiện trong một lĩnh vực văn hoá nhất định, không phải vì sự thật không thay đổi của thời gian và nơi mà chúng có thể không bao giờ phản ảnh.
Cách tiếp cận của Harootunian là mới mẻ. Nó cũng bị xé toạc ra bởi hai mâu thuẫn. Thứ nhất, trong khi tranh luận rằng quá khứ “ có thể chưa được biết đến” ông cũng giải thích rằng chúng ta có thể biết lĩnh vực văn hoá xác định trong đó những bài luận được phát hành. Trong câu khác ông tranh cãi rằng quá khứ là cả cái không thể hiểu biết lẫn cái có thể hiểu biết. Thứ hai ông không phân biệt một cách rõ ràng giữa sự hiểu biết của ông về các bài luận và cách mà những bài luận này được hiểu trong quá khứ vì vậy đã làm hỏng lập luận của ông về việc xác lập lĩnh vực văn hoá xác định trong các bài luận đã được phát hành.
Trong khi mô tẩ sự nổi lên của văn hoá in ấn, tôi đã mô tả sinh động lĩnh vực văn hoá xác định đã góp phần thúc đẩy sự hình thành có ý nghĩa của Việt Nam thuộc địa. Lĩnh vực này không đơn giản là được tạo ra bởi các nhà văn và các bài viết của họ; nó được tạo thành bởi tất cả các thông lệ ví dụ như việc kiểm soát nhà nước đối với các ấn phẩm, những điều tác động đến sự xuất bản , việc phát hành và việc đọc các văn bản.
Việc phân tích này khác với những cách tiếp cận khác đối với xã hội Đông Nam á và Trung quốc được đặt cơ sở vào việc mở rộng phân tích các văn bản quan trọng. Ví dụ, Reinaldo Deto cho thấy làm thế nào mà những bức điện của quân nổi dậy và những lời kháng nghị được mã hoá ở Taaglog Pasyon, mở ra con đường mà chúng ta sử dụng những bài báo như vậy để hiểu thực tế xã hội một cách rộng rãi hơn. Nhưng ông và những người khác như Vicent Rafael tập trung một cách quá mức vào sự thể hiện văn bản của các nhà sử học. Ngược lại bài luận này đặt sự phân tích nguyên bản trong một văn hoá xuất bản rộng lớn hơn. xem xét cả mối quan hệ của những bài được in ra với độc giả và thính giả và tác động của sự kiểm duyệt với các bài luận đã được in ấn.
Mục đích của luận văn này nhằm tìm hiểu sự nổi lên của văn hoá in ấn ở Việt Nam, những thực tiễn đã ảnh hưởng đến nó ( ví dụ sự kiểm duyệt của Pháp) và đặt nó trong đời sống công cộng. Đó là một câu chuyện bị làm cho lu mờ một cách không chính đáng bởi các nhà dân tộc chủ nghĩa và sự tường thuật chống chủ nghĩa thực dân của các nhà sử học Việt Nam hiện đại.
Những ghi chú về việc nghiên cứu luận văn này.
Từ khi tôi bắt đầu việc nghiên cứu của tôi, tôi đã hiểu rằng mục tiêu của luận văn này đã được hình thành rồi. Đầu tiên tôi thấy văn hoá in ấn như một khái niệm có tính bao quát toàn bộ có thể đưa ra một sự liên kết với một chủ đề rộng lớn. Tôi đã đặt kế hoạch bắt đầu với sự phân tích kinh tế của việc xuất bản bao gồm mọi vấn đề từ tư bản hoá các nhà xuất bản tới cuộc đình công của các công nhân nhà in. Rồi tôi có kế hoạch phân tích xã hội về vị trí các bài báo trong xã hội và để kết luận với việc phân tích các bài báo văn học.
Bây giờ tôi thấy văn hoá xuất bản không phải là một khái niệm bao quát có thể mang đến tất cả mọi khía cạnh của bài luận văn này nhưng như một sự bắt đầu chỉ ra cho một sự nghiên cứu sự tác động của những nhóm đặc thù viết về xã hội Việt Nam. Hình thức bài luận văn của tôi đã thay đổi vì hai lý do chính. Thứ nhất, kế hoạch ban đầu của tôi thì quá nhiều tham vọng. Thứ hai, có lẽ quan trọng hơn cơ quan lưu trữ Việt Nam và Pháp có ít tài liệu xuất bản Việt Nam là cơ quan kinh tế và xã hội. Không hề bất ngờ, các tài liệu lưu trữ phản ánh sự ám ảnh của bộ máy hành chính Pháp với các vấn đề chính trị, đặc biệt sự bất đồng chống lại Pháp. Chắc chắn những chủ đề tôi quan tâm đến nhiều như tình hình Phật giáo hoặc về phụ nữ được miêu tả nghèo nàn trong các nhóm tài liệu lưu trữ chính mở ra cho những nhà nghiên cứu.
Luận văn này được kết hợp mở rộng nghiên cứu tài liệu lưu trữ ở Pháp và Việt Nam. Tôi đã sử dụng tài liệu lưu trữ từ ba nguồn; Trung tâm lưu trữ Pháp, trung tâm lưu trữ quốc gia I, trung tâm lưu trữ quốc gia II. Các tài liệu lưu trữ ở hai trung tâm sau đặc biệt có giá trị vì hai lý do: thứ nhất rất ít người Phương Tây đã kiểm tra những hồ sơ hiện nay nằm ở Việt Nam và bản thân người Việt Nam hiếm khi sử dụng những tài liệu gốc này một cách rộng rãi. Thứ hai, tập hợp những tài liệu lưu trữ này thì nhiều hơn trong lịch sử địa phương là những tài liệu lưu trữ Pháp.
Luận văn này kết hợp việc nghiên cứu những tài liệu lưu trữ với sự mở rộng đọc những cuốn sách và bài luận ngắn của Việt Nam từ thời kì này. Viện nghiên cứu tiểu sử ( Pa ri) có tập hợp tư liệu được tổ chức tốt nhất và hoàn hảo nhất về thời kì được nghiên cứu. Từ năm 1992 trở về trước, thư viện này đã nhận được nhiều bản copy nhiều loại sách tiểu luận ngắn và bâo chí được xuát bản hợp pháp ở Đông Dương. Mặc dù một vài ấn phẩm không có trong thư viện này nó được giữ lại trong thư viện những ấn phẩm Việt Nam được xuất bản trong thời kì thuộc địa. Thư viện quốc gia ở Hà Nội vẫn cực kì đầy đủ, đặc biệt những tài liệu được xuất bản sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam. Cuối cùng, thư viện của bảo tàng cách mạng có giữ một số lượng nhỏ nhưng có giá trị các truyền đơn cách mạng.
------
* Đây là Luận án TS của Shawn Fredrick Mc Hale thực hiện tại Cornell University. Luận án này đã được hoàn chỉnh và xuất bản dưới tên: Print and power: Confucianism, Communisism, and Buddhism in the Making of Modern Vietnam, University ofHawai'i press, Honolulu
1. Roger Chartier : le monde comme represtation( Thế giới như sự hình dung), Annles E S C ( tháng11-12) 1989, 1509
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét