Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

BỘ ATLAS UNIVERSEL CỦA PHILIPPE VANDERMAELEN - GIÁ TRỊ TOÀN CẦU, TÀI SẢN QUỐC GIA VIỆT NAM

(Phát biểu của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc tại Lễ bàn giao  bộ Atlas Universel giữa Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Nội vụ)

Năm 1827 Philippe Vandermaelen (1795-1869), nhà Địa lý học kiệt xuất, thành viên Hội Địa lý Paris[1] xuất bản bộ Atlas Universel de géographie physique, politique, statistique et mineralogique (Atlas địa lý tự nhiên, chính trị, thống kê và khoáng sản thế giới, gọi tắt là Atlas Thế giới hay Atlas Toàn cầu) gồm 6 tập:  (1) Châu Âu, (2) Châu Á, (3) Châu Phi, (4) Bắc Mỹ, (5) Nam Mỹ, (6) Châu Úc với 7 bản đồ chung của các châu lục, 381 bản đồ chi tiết, 40 trang bảng thống kê và nhiều thông tin về địa lý tự nhiên, chính trị, khoáng sản của các quốc gia.

TẬP
CHÂU
BẢN ĐỒ CHUNG
BẢN ĐỒ CHI TIẾT
CỘNG
1
Châu Âu
1
29
30
2
Châu Á
1
111
112
3
Châu Phi
1
60
61
4
Bắc Mỹ
1
77
78
5
Nam Mỹ
2
44
46
6
Đại Dương
1
60
61

TỔNG SỐ
7
381
388

Như giới thiệu ở bìa trong, Philippe Vandermaelen vẽ bộ bản đồ này dựa theo những tấm bản đồ tốt nhất thế giới lúc đó, cùng những thông tin từ quan sát thiên văn hay những chuyến du hành ở nhiều nơi trên trái đất và được vẽ thống nhất theo tỷ lệ 1/1641836, kích thước 53,5x37cm. Đây là những tấm bản đồ thế giới đầu tiên được vẽ trên cùng một tỷ lệ, có cùng kích thước, theo phương pháp hình chiếu nón[2] (chứ không sử dụng phương pháp Mercator như trước đây) và cũng là bộ bản đồ đầu tiên trên thế giới được in li-tô (kỹ thuật in tiên tiến nhất cũng mới xuất hiện trước đó vài chục năm). Những bản đồ này còn có thể được ghép lại thành quả địa cầu có đường kính 7,755m. Bộ bản đồ của Philippe Vandermaelen thực sự là một cột mốc đánh dấu giai đoạn phát triển trội vượt cuả công nghệ vẽ và in bản đồ hiện đại ở đầu thế kỷ XIX. Chính vì thế mà ngay từ khi mới hoàn thành Atlas Universel đã trở nên hết sức nổi tiếng, được khai thác sử dụng ở khắp các châu lục và càng ngày càng trở thành tài sản chung của mọi người quan tâm trên phạm vi toàn thế giới[3]. Giáo sư Philippe Papin (Trường Cao học Thực hành Paris) nhận xét: "Trên thế giới có những người ham mê khoa học đến mức quên mình và nhờ đó đó để lại những đóng góp quý báu đối với kho tàng tri thức của nhân loại. Có thể nói Philippe Vandermaelen chính là một trong số những người này, mặc dù ban đầu không ai ngờ rằng nhà khoa học người Bỉ này sẽ trở thành một chuyên gia bản đồ lớn nhất của thế kỷ XIX và không ai có thể hình dung nổi ông sẽ lập được một bộ Atlas chi tiết và chính xác đến mức cho tới ngày nay vẫn là một công cụ không thể thiếu được đối với các nhà khoa học".
Bản đồ các nước Châu Á được xếp chủ yếu trong tập hai của bộ Atlas với 111 tờ bản đồ của hầu hết các quốc gia Châu Á đương thời, (riêng các quốc đảo ở khu vực Đông Nam Á lại được xếp vào tập sáu, châu Đại Dương). Việt Nam hay Đế chế An Nam (Empire d’Annam) khi đó được giới thiệu thông qua 4 tấm bản đồ: Tờ số 97 mang tên Tonquin chủ yếu về khu vực Bắc Kỳ; tờ số 110 mang tên Partie de Camboge chủ yếu về khu vực Nam Kỳ; tờ số 105 mang tên Camboge et Anam, trong đó phần phía Đông của tờ này chủ yếu là khu vực Trung Kỳ đất liền và tờ số 106 mang tên Partie de la Cochinchine là khu vực Trung Kỳ duyên hải, biển và hải đảo[4].

IMG_7714
IMG_7716
Bộ Atlas universel xếp đứng
theo thứ tự từ tập 1 đến tập 6
Bìa trong tập 2 bộ Atlas universel
xuất bản năm 1827 tại Bruxelles

Partie de la Cochinchine vẽ liền một mảnh rộng ngang khổ giấy A3, thể hiện đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 (khu vực tương đương với tỉnh Khánh Hòa hiện nay, mà trên bản đồ có địa danh BINK-KANG (Bình Khang) và NHIATRANG (Nha Trang)) đến vĩ tuyến 16 (khu vực tương đương với tỉnh Quảng Nam hiện nay, mà trên bản đồ ở phía ngoài bờ biển có địa danh CHAMPELLA (Cù Lao Chàm)).




Tiếp liền Partie de la Cochinchine ở phía trên là tấm số 98 mang tên Partie de la Chine trong khoảng vĩ độ 18-21 và kinh độ 106-114 vẽ khu vực Canton (Quảng Đông) và đảo Hải Nam (Hainan) khẳng định một cách hết sức rõ ràng biên giới cực nam của Trung Quốc là vị trí cực nam của đảo Hải Nam, nằm ở phía trên vĩ độ 18°.
Phía ngoài khơi, PARACELS (Hoàng Sa) được vẽ khá chi tiết và chuẩn xác trong khoảng từ vĩ độ 16° đến 17° và kinh độ từ 109° đến 111°[5]. Quần đảo PARACELS trong bản đồ có các đảo Pattles, Duncan ở phía tây; Tree và Lincoln, Rocher au dessus de l’eau (Bãi đá ngầm) ở phía đông và Triton ở phía tây nam, ngay dưới vĩ độ 16°; Investigateur ở sâu xuống phía nam khoảng vĩ độ 14,5°.


Tấm bản đồ (Châu Á) số 106 mang tên Partie de la Cochinchine
Tấm bản đồ (châu Á) số 98 mang tên Partie de la Chine


Bên cạnh khu vực được xác định là PARACELS, bản đồ có một bản giới thiệu tóm tắt về Đế chế An Nam (Empire d’An-nam), bao gồm  các nội dung Physique (tự nhiên), Politique (chính trị), Statistique (thống kê) và Minéralogique (khoáng sản).


IMG_8151
Vị trí của các tấm bản đồ số 97, 98, 105, 106 và 110
trong bản đồ chung về khu vực châu Á

Cũng thống nhất với các khu vực khác trên thế giới, tấm bản đồ chung về khu vực châu Á xác định vị trí cụ thể của từng bản đồ chi tiết. Tấm thứ 97 Tonquin được xếp trước và ngang liền với tấm thứ 98 mang tên Partie de la Chine. Người xem bản đồ có thể thấy đường biên giới rất rõ ràng của Trung Quốc với Tonquin ở tấm số 97 chạy liền mạch sang tấm số 98 bao lấy đường bờ biển và đảo Hải Nam, không xuống dưới vĩ tuyến 18. Tấm số 105  Camboge et Anam được xếp dưới liền với tấm số 97 và ngang liền với nó là tấm số 106 Partie de la Cochinchine. Phía dưới liền với tấm số 105 là tấm số 110 mang tên Partie de Camboge vẽ về khu vực Nam Bộ của Việt Nam và ngang liền với nó là khu vực quần đảo được đánh dấu bằng cái tên B.du.P.de Galles, nhưng không thể hiện thành bản đồ chi tiết và như thế bộ Atlas Universel của Philippe Vandermaelen chưa có bản đồ chi tiết về khu vực này.
Tất cả các bản đồ của Trung Quốc từ thập kỷ đầu thế kỷ XX trở về trước cũng hoàn toàn thống nhất với bản đồ phương Tây không hề vẽ lãnh thổ cực nam của Trung Quốc vượt xuống dưới vĩ độ 18°[6]. Điều này không chỉ phản ánh tính khách quan, chuẩn xác của Atlas Universel, mà còn góp phần làm tăng thêm giá trị minh chứng chủ quyền của Việt Nam ở Paracels đã được thể hiện trong Partie de la Cochinchine
Bắt đầu từ thế kỷ XVI đã có một số bản đồ phương Tây vẽ về khu vực Đông Ấn có đánh dấu địa danh Pracel hay Paracels (Hoàng Sa) ở giữa Biển Đông và khu vực bờ biển phía tây Pracel hay Paracels (tương đương với bờ biển miền Trung Việt Nam) được quan niệm là Costa de Paracel (bờ biển Hoàng Sa) nói lên mối quan hệ về chủ quyền của Vương quốc Champa và của Đàng Trong (Cochinchine) thời chúa Nguyễn đối với các quần đảo giữa Biển Đông.
Bước sang thế kỷ XVII và nhất là thế kỷ XVIII, trong bối cảnh phát triển bùng nổ của thương mại và công nghệ bản đồ, sự hiểu biết của người phương Tây về khu vực Biển Đông cũng cụ thể và sâu sắc hơn, nhiều bản đồ đã thể hiện rõ ràng hơn vị trí, đặc điểm địa lý và mối quan hệ chủ quyền của Paracels với khu vực Đàng Trong. Tuy vậy có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết các bản đồ này vẫn vẽ các quần đảo giữa Biển Đông là một dải đảo và vẫn xếp các quần đảo này vào chung khu vực Đông Ấn hay Đông Nam Á.
Phải đến đầu thế kỷ XIX, khi Vương triều Nguyễn được thành lập với sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa (bao gồm cả Trường Sa) một cách đầy đủ, thật sự theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được phương Tây thừa nhận và ca ngợi[7], bản đồ phương Tây mới chính thức xác nhận quần đảo Paracels nằm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và thuộc về nước Việt Nam.
Trước đây chúng ta đã phát hiện và giới thiệu An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Jean Louis Taberd năm 1838, trong đó có vẽ 9 dấu chấm nhỏ tượng trưng cho khu vực được đánh dấu là PARACELS Seu Cát Vàng (Paracels hay là Cát Vàng). Mặc dù vẫn biết đây là bản đồ vẽ toàn bộ đế chế An Nam trong một cái nhìn tổng thể và việc đánh dấu được vị trí của Paracels ở trong đó là vô cùng quý giá, nhưng nếu muốn nghiên cứu về Paracels và chủ quyền của Việt Nam ở Paracels một cách rõ ràng, cụ thể thì phải tham khảo thêm các tài liệu khác, trong đó có bài luận của chính Jean Louis Taberd viết năm 1837[8]. Partie de la Cochinchine trong bộ Atlas Universel của Phillipe Vandermaelen không chỉ đã đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu nhận thức này, mà còn là một bảo đảm bằng vàng cho sự chính xác của An Nam đại quốc họa đồ.
Partie de la Cochinchine thuộc số rất ít bản đồ tính cho đến những thập kỷ đầu thế kỷ XIX đã vẽ một cách tuyệt đối chính xác vị trí (kinh độ, vĩ độ), đặc điểm địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchine (Đàng Trong, mà người phương Tây lúc đó dùng để chỉ khu vực miền Trung Việt Nam) là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An Nam, đã minh chứng một cách đầy đủ, rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa ít nhất vào những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khi bộ bản đồ được xây dựng và xuất bản. Tấm bản đồ Cochinchine sau khi được nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan khoa học, đặt trong mối quan hệ với bản đồ của các quốc gia khu vực xung quanh Biển Đông được thể hiện trong tập châu Á và châu Đại Dương; so sánh đối chiếu với các nguồn tư liệu bản đồ, thư tịch cổ của Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây khác xuất hiện trong khoảng những thập kỷ đầu thế kỷ XIX thì chắc chắn nó có giá trị kiểm chứng, làm tăng thêm giá trị khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa của chính bản đồ này và toàn bộ hệ thống bản đồ, tư liệu mà chúng ta đã tập hợp được.
Cũng cần phải nói thêm ở đây là Partie de la Cochinchine thông qua phương pháp vẽ bản đồ khoa học và hiện đại, đã đánh dấu một cách chính xác vùng các đảo ven bờ như Cham Collac ou Champella (Cù Lao Chàm), P. Canton ou Cacitam (Cù Lao Ré)… và phân biệt một cách hết sức rạch ròi với quần đảo Hoàng Sa ở giữa Biển Đông, mà bất cứ những ai có tâm thần và trí tuệ bình thường đều không thể nhầm lẫn được. Partie de la Cochinchine là bản đồ thực sự khách quan, khoa học, có tính chuẩn xác cao, lại được chính thức xuất bản sớm (từ đầu thế kỷ XIX), không chỉ khẳng định một cách mạnh mẽ, tuyệt đối chính xác chủ quyền của Việt Nam ở Paracels (Hoàng Sa), mà còn có đủ cơ sở vững chắc để bác bỏ một cách triệt để lối giải thích mập mờ, tùy tiện, mà thực chất là lợi dụng xuyên tạc của một số học giả Trung Quốc rằng Paracels hay Hoàng Sa, Trường Sa chỉ là các đảo ven bờ (như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré...), còn Tây Sa, Nam Sa của Trung Quốc mới là các đảo ở giữa biển, không có liên quan gì đến Paracels hay Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX trở về trước[9].

Bộ Atlas Universel của Philippe Vandermaelen nói chung và Partie de la Cochinchine nói riêng xét trên mọi khía cạnh đều có thể được coi là một tài liệu vô giá không chỉ giúp nâng cao giá trị khoa học chuẩn mực của công cuộc tuyên truyền, giáo dục về chủ quyền biển đảo, mà còn là một bằng chứng hùng hồn, đích thực và có giá trị pháp lý quốc tế cao cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

*
*    *

Đánh giá một cách chính xác giá trị pháp lý quốc tế khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Paracels tương đương khu vực từ vĩ tuyến 17° trở xuống phía Nam và lãnh thổ, lãnh hải cực Nam của Trung Quốc chỉ bắt đầu từ phía trên vĩ tuyến 18° ngược lên phía Bắc, dưới sự chỉ đạo của Bộ Thông tin và Truyền thông, mà trực tiếp là Thứ trưởng Trương Minh Tuấn và Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại Lê Văn Nghiêm, được sự tài trợ kinh phí của ông Ngô Chí Dũng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Dược phẩm ECO, cùng sự cộng tác của các chuyên gia về Sử học, Địa lý học, Bản đồ học, Văn bản học, Thư viện học, Lưu trữ học, Luật pháp quốc tế ở Viện Địa lý Hoàng gia Bruxelles, Thư viện Quốc gia Bỉ, Hội Luật gia Châu Âu, Trường Viễn Đông bác cổ Pháp, Thư Viện Quốc gia Pháp, Đại học Paris VII, Thư Viện Đại học Y Paris, Trường Cao học Thực hành Paris… chúng tôi đã quyết định mua bộ gốc, trọn bộ, nguyên bản Atlas Universel của Philippe Vandermaelen xuất bản tại Bruxelles năm 1827 tại hiệu sách và bản đồ cổ Sanderus, Nederkouter 32, 900 Gent - Belgium (ông Filip Devroe là Chủ hiệu) và Đại sứ quán Việt Nam ở Pháp đã giúp đỡ việc chuyển về Việt Nam trở thành tài sản Quốc gia Việt Nam.
Bộ Atlas được đưa về Việt Nam đúng vào lúc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, ngay lập tức Bộ Thông tin và Truyền thông cho giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và trưng bày trang trọng trong 10 cuộc triển lãm Quốc gia ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, huyện đảo Lý Sơn, Cà Mau, huyện đảo Trường Sa, Quảng Ninh, huyện đảo Cô Tô và nhiều địa phương khác… tạo nên dấu ấn sâu sắc, niềm xúc động mạnh mẽ và củng cố ý chí, niềm tin ở sức mạnh chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia lãnh thổ.
Chúng tôi xin được trân trọng cám ơn Bộ Thông tin và Truyền thông cùng nhà tài trợ và các chuyên gia, các cơ quan hữu quan trong nước và quốc tế đã tạo điều kiện tối ưu cho chúng tôi được khảo sát, nghiên cứu xác định giá trị của bộ Atlas Universel, làm cơ sở bước đầu giới thiệu tới toàn thể quý vị hôm nay. Hy vọng rồi đây Bộ Khoa học và Công nghệ hay Quỹ Quốc gia về Khoa học và Công nghệ sẽ quan tâm đầu tư triển khai đề tài khoa học bài bản và tổ chức hội thảo khoa học quốc tế để các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực chuyên môn ở trong nước và trên thế giới cùng nhau nghiên cứu, đánh giá, trao đổi làm sáng rõ hơn những nội dung của bộ Atlas Universel mà bản thân chúng tôi chưa có điều kiện và khả năng đi sâu tìm hiểu. Đến khi đó chúng ta mới có thể đánh giá được một cách đầy đủ và chuẩn xác giá trị của bộ Atlas Universel cũng như kinh nghiệm khai thác và sử dụng nó, phục vụ hiệu quả cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.



[1] Đến đầu năm 1829, ông trở thành thành viên của Viện Hàn lâm Hoàng gia các nhà Khoa học và Mỹ văn Vương quốc Bỉ. Năm sau, 1830 ông sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bruxelles. Năm 1836 ông được tặng Huân chương Léopold của Hoàng gia Bỉ. Ông cũng là thành viên của nhiều tổ chức khoa học khác tại Vương quốc Bỉ cũng như quốc tế.
[2] Đã gần 2 thế kỷ trôi qua, kể từ sau khi Philippe Vandermaelen cho xuất bản bộ Atlas này, việc sử dụng phương pháp hình chiếu nón vẫn được coi là phương pháp thể hiện một cách trung thực nhất bề mặt trái đất hình cầu lên mặt phẳng của tấm bản đồ Thế giới.
[3]Theo chúng tôi được biết bộ Atlas này hiện nay vẫn còn được lưu giữ tại nhiều kho sách hay thư viện của các viện nghiên cứu và trường đại học thuộc nhiều nước châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Cuối tháng 4 và đầu tháng 5 vừa qua, chúng tôi cùng các cộng tác viên cũng có cơ hội được trực tiếp khảo sát, nghiên cứu 1 bộ ở trường Đại học Y Paris; 2 bộ (1 bộ rời và 1 bộ đóng thành 6 tập) ở Thư viện Quốc gia Paris; 1 bộ đóng thành 6 tập ở Thư viện Viện Địa lý Hoàng gia Bruxelles và 2 bộ (1 bộ rời và 1 bộ đóng thành 6 tập) ở Thư viện Hoàng gia Bruxelles; 1 bộ đóng thành 6 tập ở Hiệu sách và bản đồ cổ Sanderus, số 32 Nederkouter, thành phố Gent nước Bỉ. Ngoài ra nhiều trường Đại học, Viện nghiên cứu, Thư viện và nhiều Hiệu sách và bản đồ cổ ở Đức, Hàn Lan, Pháp, Mỹ... đều có thông tin lưu giữ bộ Atlas Universel của Philippe Vandermaelen. Đặc biệt, năm 2009 Studio kỹ thuật số của Thư viện Đại học Princeton (Mỹ) đã triển khai dự án số hóa bộ Atlas Universel và đến năm 2011 đã đưa lên mạng cho tất cả những người quan tâm trên toàn thế giới khai thác và sử dụng.  
[4] Có nhiều người quen dịch Cochinchine là Nam Kỳ. Tuy nhiên trong trường hợp này phải dịch là Đàng Trong hay Trung Kỳ mới đúng, vì Cochinchine từ đầu thế kỷ XVII cho đến năm 1884 vẫn được gọi chung cho toàn bộ khu vực Đàng Trong (tính từ Đồng Hới, Quảng Bình trở vào Nam). Bắt đầu từ năm 1885 Cochinchine mới trở thành tên gọi riêng cho khu vực Nam Kỳ.
[5] So với bản đồ Thế giới hiện nay thì đường vĩ tuyến trong bộ Atlas Universel hoàn toàn trùng khít, đường kinh tuyến lệch khoảng 2 độ (thí dụ Hải Khẩu, đảo Hải Nam, Trung Quốc trong bản đồ hiện nay là 110°, nhưng trong bộ Atlas Universel là 108°). Sự sai lệch này không chỉ khẳng định độ chuẩn xác của bản đồ mà còn xác nhận tính nguyên gốc của nó, vì Atlas Universel của Philippe Vandermaelen lấy kinh tuyến Paris (Pháp) làm chuẩn. Đường kinh tuyến Greenwich (Luân Đôn, nước Anh) lần đầu tiên được dùng để vẽ bản đồ biển vào năm 1871 và được thống nhất sử dụng để vẽ bản đồ Thế giới từ năm 1884. Hai hệ thống này lệch nhau 2 độ 20 phút 14 giây. (Tham khảo: Marguerite Silvestre : Inventaire raisonné des collections cartographiques Vandermaelen, Tập V L’Atlas Universel (1825-1827), Bibliotheque royale de Belgique, 2011, chú thích 12 trang 17)
[6] Bản đồ Trung Quốc có thể tham khảo Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (1904); Đại Thanh đế quốc vị trí khu hoạch đồ... Bản đồ phương Tây có đến hàng trăm bản đồ vẽ về đế chế Trung Hoa nói chung, khu vực tỉnh Quảng Đông nói riêng hay các nước trong khu vực Đông Ấn có biên giới với Trung Quốc mà đường biên giới đất liền và biên giới biển được phân định rất rõ ràng. Ranh giới biển của Trung Quốc từ nhà Thanh trở về trước chưa bao giờ vượt xuống dưới vĩ tuyến 18°. Có một sự kiện được cả Thế giới quan tâm là vào tối ngày 28 tháng 3 năm 2014, nhân chuyến thăm chính thức Cộng hòa Liên bang Đức của Chủ tịch nước Trung Quốc, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã tặng cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tấm bản đồ vẽ lãnh thổ Trung Quốc thời nhà Thanh do nhà bản đồ học người Pháp Jean Baptiste Bourguignon (1697-1782) vẽ và in tại Đức năm 1735, mà bất cứ ai nhìn vào tấm bản đồ này cũng có thể thấy ở phía dưới đảo Hải Nam không có bất cứ một dấu hiệu nào chứng tỏ có đảo hay biển thuộc phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của nhà Thanh. Tất cả các tấm bản đồ phương Tây khác đều vẽ thống nhất như thế này, thậm chí còn chỉ ra một cách chính xác tuyệt đối rằng biên giới truyền thống của Trung Quốc chưa bao giờ vượt quá vĩ tuyến 18°. Thông điệp của Thủ tướng Đức Angela Merkel là các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay không nên quên ranh giới của nước Trung Hoa do tổ tiên, ông cha họ đã tạo dựng trong suốt trường kỳ lịch sử. Sự nhầm lẫn hay thiếu hiểu biết sẽ dễ dẫn đến nguy cơ phá vỡ trật tự, thậm chí gây hỗn loạn toàn cầu.
[7] Thí dụ Jean Louis Taberd cho biết: Quần đảo Pracel hay Paracels là một khu vực chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát... Những người dân xứ Đàng Trong gọi khu vực đó là Cồn Vàng. Mặc dù rằng hình như loại quần đảo này chỉ có độc những tảng đá ngầm mà không có gì khác, và độ sâu của biển hứa hẹn những điều bất tiện hơn là sự thuận lợi, nhưng nhà vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông ta đã tăng cường được quyền thống trị lãnh thổ của mình bằng sự sáp nhập tội nghiệp đó. Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc chắn là sẽ không có một ai tìm cách tranh giành với ông ta".
Và đây là nhận xét của M.A Dubois Jancigny:"Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó"....   
[8] Bản đồ đã vẽ tương đối chính xác vị trí của Paracels nằm ở phía trên vĩ độ 16° và kinh độ 111°. Bên trong đường viền mép dưới bản đồ còn có dòng chữ: Longitude Easte from Greenwich (Kinh tuyến Đông từ Greenwich, (Luân Đôn, nước Anh)). Việc có thêm một dòng chữ tiếng Anh này hẳn cũng lưu ý người sử dụng bản đồ cần tìm hiểu thêm về tính nguyên gốc của văn bản này. Theo chúng tôi An Nam đại quốc họa đồ được Jean Louis Taberd vẽ năm 1838 theo kinh tuyến Paris, (cơ bản thống nhất với bài luận viết năm 1837 cho hay Paracel bắt đầu ở khoảng kinh độ 107° Đông Paris), nhưng đến khoảng cuối thế kỷ XIX được chỉnh theo kinh tuyến Greenwich. Đây chỉ là thay đổi đường kinh tuyến từ hệ Paris sang hệ Greenwich, mà không có ảnh hưởng gì đến các vị trí cụ thể trong tấm bản đồ được vẽ năm 1838. Độ xác thực của tấm bản đồ vì thế cũng không có gì thay đổi.
[9] Đới Khả Lai (Đại học Trình Châu, Hà Nam, Trung Quốc), Hàn Chấn Hoa (Đại học Hạ Môn, Phúc Kiến, Trung Quốc) từ đầu những năm 1980 chủ trương có 2 giai đoạn nhận thức về Paracels: Từ giữa thế kỷ XIX trở về trước thì Paracels chỉ là các đảo ven bờ như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, còn từ giữa thế kỷ XIX trở lại đây mới quan niệm vị trí của Paracels như hiện nay. Vu Hướng Đông (Đại học Trình Châu, Hà Nam, Trung Quốc) trong luận án tiến sĩ bảo vệ tại Đại học Hà Môn (Phúc Kiến, Trung Quốc) năm 2008 còn muốn đi xa hơn các bậc tiền bối của mình, cho rằng Hoàng Sa chỉ là Cù Lao Ré (vì ở Cù Lao Ré có đội Hoàng Sa) và Trường Sa chỉ là dải bãi cát Đại Trường Sa, Tiểu Trường Sa ở bờ biển tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay?. Đây là sự xuyên tạc một cách quá lộ liễu mà chỉ cần đọc Partie de la Cochinchine một cách nghiêm túc cũng có đủ cơ sở để vạch trần chân tướng và bác bỏ một cách triệt để. Cũng cần phải nói rõ thêm là Trung Quốc tự cho rằng họ có chủ quyền lâu đời ở Tây Sa (tức Hoàng Sa theo cách gọi Việt Nam hay Paracels theo cách gọi phương Tây), nhưng trên thực tế, đến năm 1909 họ mới bắt đầu đặt chân lên quần đảo này, tự cho mình là kẻ khai sơn, phá thạch và đặt tên mới cho đảo là Tây Sa (mà không biết (hay cố tình không biết) là từ cuối thế kỷ XV, người Việt Nam đã gọi đây là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa), đã xác lập chủ quyền với tư cách nhà nước ít nhất từ đầu thế kỷ XVII và đã thực thi chủ quyền trong điều kiện hòa bình, không có tranh chấp nhiều thế kỷ liên tục, được chính người Trung Quốc đương thời và các nước phương Tây thừa nhận).   

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Mỗi tấc đất Tổ quốc là một thước đo phẩm giá



Báo Nhân dân hàng tháng. Thứ ba, 05/02/2013 - 02:59 AM (GMT+7) Giải nhất báo chí toàn quốc!

GS, TS Nguyễn Quang Ngọc.
Nơi bắt đầu Tổ quốc, cũng là nơi bắt đầu của lịch sử một dân tộc. Những ngày đầu năm, hướng về nguồn cội, về biên cương hải đảo, GS, TS Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, đã dành cho chúng tôi cuộc trò chuyện dưới góc nhìn lịch sử.

Chủ quyền lãnh thổ trong tâm thức nhân dân
Thưa Giáo sư, qua những cứ liệu lịch sử, ông có thể cho biết sự hình thành lãnh thổ và chủ quyền đất nước Việt Nam được bắt đầu như thế nào?
- Sau một quá trình phát triển lâu dài của các nền văn hóa tiền sử, vào sơ kỳ thời đại Đồ Sắt, trên lãnh thổ của nước Việt Nam hình thành ba trung tâm văn hóa lớn làm cơ sở cho sự ra đời của những nhà nước cổ đại đầu tiên: văn hóa Đông Sơn ở miền bắc dẫn đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang, Âu Lạc; văn hóa Sa Huỳnh ở miền trung và Nam Trung Bộ chuẩn bị cho sự xuất hiện nhà nước Lâm Ấp, Chămpa và văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ quan hệ với sự ra đời của vương quốc Phù Nam.
Nước Việt Nam ngày nay bắt đầu quá trình hình thành từ ba vùng văn hóa lớn đầu tiên ấy. Ý thức truyền thống về chủ quyền lãnh thổ của người Việt Nam cũng bắt đầu từ quá trình ra đời và hợp nhất của ba nhà nước sơ khai này. Nói một cách khác, từ ba vương quốc đầu tiên làm cơ sở nền tảng, cốt lõi, dần dần mở ra quá trình khai phá, dựng xây, quá trình chinh phục núi rừng, biển cả hoang sơ, từng bước mở cõi và định cõi. Không chỉ trên đất liền, dân tộc Việt Nam sinh ra trên bờ Biển Đông, sống cùng biển và sớm vươn ra khai chiếm biển. Và dấu chân đi mòn mở lối của ông cha từ nghìn đời đã rất tự nhiên - hình thành nên những vùng biên cương lãnh hải.
* Vậy cũng theo góc nhìn lịch sử, đường biên giới trên biển cũng như trên bộ, rõ ràng không chỉ là ranh giới hành chính, mà là dấu mốc thiêng liêng của quá trình sinh sống của tổ tiên ta nghìn đời. Đó còn là truyền thống văn hóa, có rất nhiều yếu tố hợp thành?
- Đó là sự ghi dấu quá trình mở đất và giữ đất của các thế hệ tiền nhân. Ngay buổi đầu khai hoang mở đất, lấn biển, chống chọi với thiên nhiên hoang dã, lịch sử được viết bằng những trang mồ hôi, nước mắt, máu xương của bao thế hệ người Việt Nam, thấm đẫm, quấn quyện, chất chồng. Mảnh đất đó vì thế mà trở thành thiêng liêng, thành gắn bó như bộ phận trong cơ thể, không thể và không dễ gì lại có thể để rơi vào tay người khác. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam bắt đầu từ đất đai nơi mình chôn nhau cắt rốn, tình yêu quê hương đất nước bắt đầu từ những cái hết sức bình dị như vậy. Những vùng đất, vùng biển xa xôi như Hoàng Sa, Trường Sa chẳng hạn, khi mà tổ tiên chúng ta đi ra đó, thực sự là những cuộc vật lộn, chống chọi với bão tố, phong ba, dấn thân vào cõi chết và vượt lên cái chết: “Hoàng Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi”. Người dân đảo Lý Sơn ra Hoàng Sa, Trường Sa là vì lệnh vua, phép nước, vì sự toàn vẹn của lãnh hải, lãnh thổ của cha ông để lại, và còn vì sự mưu sinh nữa. Đất đai, biển cả của Tổ quốc, đâu chỉ đơn thuần là đất, là nước, là biển, là đảo đá, bãi ngầm, bãi cạn..., mà còn là cả núi xương, biển máu của lớp lớp các thế hệ người Việt Nam kết tinh trong đó. Vì vậy mà vô cùng thiêng liêng.
Vâng, biên giới hải đảo của Tổ quốc không chỉ rõ ràng trên bản đồ, văn bản, mà còn một cứ liệu lịch sử khác vô cùng quan trọng, đó là sự lưu giữ trong tâm thức của nhân dân...
- Cương vực và lãnh thổ Việt Nam không chỉ được xác định và cố định lại trong hệ thống bản đồ, tư liệu, cứ liệu lịch sử rõ ràng, minh bạch, chuẩn xác, mà còn ghi đậm, khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam.
Điều đó thể hiện xuyên suốt trong lịch sử, thành một ý thức truyền thống bền chặt. Lý Thường Kiệt và quân dân nhà Lý quyết tiêu diệt đến cùng quân xâm lược Tống trên chiến tuyến sông Cầu là để khẳng định một chân lý vĩnh hằng rằng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở). Thời vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết rất rõ: “Từ Triệu - Đinh - Lý - Trần bao đời xây nền độc lập/Cùng Hán - Đường - Tống - Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”. Đến Lê Thánh Tông thì việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đã trở thành mệnh lệnh thiêng liêng: “Kẻ nào dám đem một thước đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc sẽ bị tội tru di”. Ông cho khắc tuyên ngôn bất hủ của mình trên núi Bài Thơ (Hòn Gai, Quảng Ninh): “Thiên Nam vạn cổ sơn hà tại” (Muôn thuở Trời Nam núi sông còn mãi). Ý thức chủ quyền quốc gia lãnh thổ đã trở thành một nguyên tắc tối thượng: Nếu một người nào đó, bất kể họ là ai, để mất vào tay kẻ thù dù chỉ một tấc đất của cha ông thì đều bị khép tội phản quốc và phải chịu hình phạt cao nhất của triều đình.
Trọng trách tối cao của mọi triều đại
* Vậy, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia lãnh thổ là trọng trách hàng đầu của mỗi triều đại trong lịch sử dân tộc?
- Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, gìn giữ toàn vẹn mỗi tấc đất biên cương, mỗi dặm hải lý biển cả của Tổ quốc không chỉ là trọng trách cao cả của mọi vương triều, mọi thể chế chính trị, mà còn là tiêu chí cao nhất để xác định phẩm giá con người Việt Nam. Điều đó được ký thác trong dân gian. Bất cứ ai, dù nổi tiếng đến đâu, nhưng nếu để mất nước, mất đất thì đều bị lên án gay gắt. Trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XV, Hồ Quý Ly là một bậc anh hùng cái thế, nhưng chỉ vì cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược không thành, mà đã phải “để hận mấy nghìn năm”. Phan Thanh Giản, Tiến sĩ nho học đầu tiên của Nam Bộ, một trí thức lừng danh của thế kỷ XIX, buộc phải thay mặt triều đình ký hiệp ước nhượng bộ thực dân Pháp. Dù đã chọn cho mình cái chết, ông vẫn không khỏi mang tiếng là “mãi quốc” (bán nước). Hay như vua Gia Long, người có tài cầm quân, tổ chức và tập hợp dân chúng, nếm mật nằm gai mở cõi và định cõi, làm nên một nước Việt Nam thống nhất, rộng dài và trọn vẹn. Sự nghiệp của ông không thể nói là không lớn lao và lừng lẫy. Thế nhưng ông vẫn phải chịu trách nhiệm nặng nề trước lịch sử vì đã từng rước quân ngoại bang về dày xéo bờ cõi, và có thể vì thế mà cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách đánh giá rất khác nhau về ông. Lịch sử có những phán quyết nghiệt ngã đến như vậy, bởi vì chủ quyền lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng là vấn đề trọng đại.
Điều đó cũng một phần bởi lịch sử đã trao vào dân tộc Việt Nam một số phận khắc nghiệt, luôn phải chống chọi với các thế lực ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền quốc gia lãnh thổ?
- Đúng vậy. Có một thực tế là lãnh thổ nước ta ở vị trí trọng yếu, đầu mối của nhiều con đường giao thương, từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, nơi tiếp xúc giữa đại lục và đại dương... Từ đó, mà đất nước ta luôn bị đe dọa, nhòm ngó bởi các thế lực lớn mạnh, từ nhiều phía, trong điều kiện tương quan lực lượng hết sức chênh lệch. Vì thế mà trong toàn bộ lịch sử lâu dài và oanh liệt của dân tộc Việt Nam, lịch sử chống ngoại xâm luôn luôn là nội dung xuyên suốt, bao trùm. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người Việt Nam có truyền thống thờ cúng những vị anh hùng, những người có công chống giặc ngoại xâm.
Bài học lịch sử về khát vọng hòa bình
* Vậy bài học lịch sử cho công cuộc gìn giữ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đất nước là gì, thưa Giáo sư?
- Tôi thấy trong lịch sử, tất cả các vương triều tiến bộ và hùng mạnh đều giữ được trọn vẹn quốc gia lãnh thổ. Tại sao chúng ta đặc biệt đề cao nhà Trần? Vì nhà Trần ba lần chiến thắng Mông - Nguyên, đại đế chế hùng mạnh nhất thế giới đương thời. Vó ngựa của chúng đã dẫm nát cả hai đại lục Âu - Á, nhưng lại bị chặn đứng ở nước ta, không phải một lần mà đến ba lần. Vì sao? Trần Hưng Đạo tổng kết: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Bài học trong lịch sử giữ nước là giữ dân, là cải thiện và nâng cao đời sống của dân. Giữ nước phải vì dân, vì thế mới huy động được sức mạnh của toàn dân.
Tất cả các kẻ thù ngoại bang đều nhằm vào lúc đất nước rối ren mà tấn công, xâm chiếm. Một trong những điểm yếu cơ bản mà kẻ thù dễ lợi dụng, đó chính là sự chia rẽ, mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ. Trái lại, một khi đã đoàn kết được toàn dân thì ngay trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp nhất, chúng ta vẫn hoàn toàn có đủ khả năng lật ngược thế cờ.
Một bài học quan trọng nữa: mặc dù số phận đặt lên vai dân tộc ta một lịch sử đi liền với đoạn trường chinh chiến như vậy, nhưng không mấy dân tộc như Việt Nam lại cháy bỏng khát khao hòa bình đến thế. Lê Lợi, Nguyễn Trãi sau hàng loạt những kỳ tích anh hùng ở Tốt Động - Chúc Động, Chi Lăng - Xương Giang, đẩy quân Minh trong thành Đông Quan vào thế “kế cùng, lực kiệt”, chỉ còn chờ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng các vị đã không chọn con đường đánh tiêu diệt, mà sẵn sàng “giảng hòa” kết thúc chiến tranh dưới hình thức hội thề. Hội thề Đông Quan thực chất là hiệp ước đầu hàng của quân Minh, bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ của Đại Việt mà không hao tổn thêm xương máu. Ý chí đó được Nguyễn Trãi viết: “Sửa hòa hiếu cho hai nước/Tắt muôn đời chiến tranh” - đó mới là mục đích cao nhất của cuộc chiến. Đây là chiến công của tầm cao trí tuệ, nhân văn, của “đại nghĩa thắng hung tàn”, của “chí nhân thay cường bạo”, thực hiện trọn vẹn khát vọng hòa bình của một dân tộc đã phải chịu quá nhiều mất mát thương đau.
Để có được những bài học từ thế hệ trước như vậy, rõ ràng việc nghiên cứu lịch sử là hết sức quan trọng. Là chuyên gia về lịch sử Việt Nam, ông có thể cho biết, việc tiếp cận tư liệu cũng như điều kiện nghiên cứu, phổ biến những công trình khoa học lịch sử có gì khó khăn?
- Có thể nói lịch sử chống ngoại xâm được các nhà nghiên cứu quan tâm rất sớm và mảng lịch sử chống ngoại xâm đã quy tụ được những thành tựu to lớn nhất của Sử học Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua.
Tư liệu thì chúng ta không thiếu. Các bộ “Việt sử lược”, “Đại Việt sử ký”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục” và nhiều các bộ sử cũ khác ghi chép về các trận đánh khá kỹ càng. Trong các nguồn sử liệu mà chúng tôi sử dụng, mặc nhiên chính sử, các tư liệu thư tịch cổ, tư liệu khách quan đương đại phải là quan trọng hơn cả. Tuy nhiên cũng phải thấy một thực tế là có những câu chuyện lịch sử thật khó có thể tìm thấy trong chính sử, mà lại ẩn chứa trong các nguồn tư liệu khác như văn bia, thần tích, ngọc phả, sắc phong, đại tự, câu đối, gia phả, hương ước, địa bạ, tục lệ, địa danh, di tích, di vật trên mặt đất và trong lòng đất... Cũng có nhiều tư liệu quý vì những lý do khác nhau đang được lưu trữ ở nước ngoài.
Mùa hè năm 2011, đến thăm Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Pháp ở Aix-en-Provence, tôi có dịp tiếp cận một khối lượng đồ sộ các nguồn tư liệu về khu vực Biển Đông, trong đó có nhiều bản đồ, ghi chép, công văn giấy tờ... minh chứng một cách rõ ràng và hiển nhiên chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tất cả các nguồn tư liệu Việt Nam, phương Tây và Trung Quốc mà tôi đã có dịp khai thác ở trong nước và ngoài nước đều thống nhất xác nhận chủ quyền thật sự và lâu đời của Việt Nam ở đây. Các tấm bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”, “Thanh đại đồ”, “Trung Hoa bưu chính dư đồ” cùng hàng loạt các bản đồ Trung Quốc khác mới được giới thiệu gần đây là thuộc thế hệ các bản đồ truyền thống của Trung Quốc, xác nhận một cách cụ thể, rõ ràng ranh giới phía nam của Trung Quốc chỉ đến cực nam của đảo Hải Nam, ở vào vĩ độ 18 độ 33 phút. Giá trị của hệ thống các bản đồ này là ở chỗ nó đồng thời xác nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía dưới vĩ tuyến 18, không có liên quan gì đến phạm vi lãnh thổ, lãnh hải cổ truyền của Trung Quốc. Những cứ liệu lịch sử ấy hết sức quan trọng và giới nghiên cứu lịch sử hầu như đều biết. Lịch sử hiển nhiên không cần phải chứng minh lại nữa.
* Vậy làm thế nào để những cứ liệu lịch sử khoa học và cụ thể ấy đến được với mỗi người dân Việt Nam?
- Trong cuốn “Lịch sử nước ta”, Bác Hồ viết: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Hiểu được gốc tích chủ quyền lãnh thổ quốc gia là rất quan trọng và thiêng liêng. Còn làm như thế nào, đó là việc mà các nhà sử học, các nhà giáo dục học, nhà trường và gia đình, bản thân mỗi người, với lòng yêu nước và trách nhiệm cao cả đều sẽ phải làm.
Vâng, xin cảm ơn Giáo sư về cuộc trò chuyện. Xin chúc Giáo sư một năm mới an lành.
HỒNG MINH (Thực hiện)

Nguồn:http://www.nhandan.org.vn/mobile/_mobile_nhandanhangthang/_mobile_chinhtri_ndht/item/193902.html

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

PHỤ NỮ TRÍ THỨC VỚI XU HƯỚNG HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX *


                                                                                     ĐẶNG THỊ VÂN CHI 
            Từ cuối thế kỷ 19, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Những chính sách của Pháp về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội trong những năm đầu thế kỷ XX đã đưa đến những thay đổi lớn trong xã hội Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam trước những thử thách mới: Đó là quá trình nhận thức thế giới, tìm tòi con đường để tồn tại như một quốc gia độc lập, quá trình hội nhập để phát triển.
     Phụ nữ Việt Nam, do nhiều yếu tố, đã có một vị trí khá quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về những đóng góp của phụ nữ, nhưng hầu như lại thiếu vắng những nghiên cứu đi sâu tìm hiểu vai trò của tầng lớp nữ trí thức trước xu hướng hội nhập ở Việt Nam những năm nửa đầu thế kỷ XX, một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống của người phụ nữ- những người chiếm một nửa xã hội.
          Qua các nguồn tư liệu lưu trữ, tư liệu báo chí và hồi ký của phụ nữ trí thức, báo cáo của chúng tôi cố gắng làm rõ vai trò của tầng lớp nữ trí thức trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX và thái độ của họ trước xu thế hội nhập với thế giới của dân tộc. Các tư liệu lịch sử cho thấy trong những năm nửa đầu thế kỷ XX  số lượng phụ nữ trí thức dù còn khá khiêm tốn, nhưng họ đã sớm thể hiện rõ vai trò là người truyền bá tư tưởng, tổ chức và hướng dẫn các phong trào phụ nữ ở Việt Nam. Từ việc tìm hiểu thế giới và xác định vị trí của mình trong trình độ phát triển chung của nhân loại, phụ nữ trí thức Việt Nam đã lựa chọn một thái độ ứng xử phù hợp thể hiện trách nhiệm của mình trước vận mệnh dân tộc, đồng thời cũng đấu tranh cho quyền lợi của giới mình, xác định tâm thế thích hợp để hội nhập với thế giới. Những người phụ nữ trí thức đã theo bước chân của các nhà hoạt động nữ quyền thế giới hoạt động trên lĩnh vực truyền thông: xuất bản báo chí, viết báo nhằm phổ biến các tư tưởng mới: tư tưởng dân chủ, nữ quyền và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Họ tổ chức diễn thuyết, tổ chức Hội chợ phụ nữ, thành lập các hội phụ nữ, các phòng đọc sách… phát động các phong trào đấu tranh đòi bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị…, thay đổi tư duy và lối sống…, xây dựng hình ảnh về mẫu người phụ nữ hiện đại phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Các hoạt động của họ đã đưa phụ nữ Việt Nam trở thành một lực lượng chính trị, xã hội quan trọng, góp phần làm nên thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa người Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng từ địa vị“ thần dân” , “nô lệ” lên địa vị  “công dân”  của một nước Việt Nam mới độc lập và dân chủ, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

    
            Năm 1906, khi sang Pháp lần đầu tiên dự Hội chợ Macxay, tri phủ Hoài Đức Trần Tán Bình đã tỏ ra kinh ngạc trước những thành tựu của văn minh phương Tây: “Những điều tôi trông thấy thì từ xưa thật chưa từng trông thấy bao giờ. Những nhời tôi nghe thấy từ xưa chưa từng nghe thấy bao giờ…”[ Đăng cổ tùng báo- 11/4/1907]. Hơn 30 năm sau, năm 1942 Hoài Thanh, Hoài Chân đã viết trong Thi nhân Việt Nam về những thay đổi trong cuộc sống của người Việt: “chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giầy Tây,mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp... còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết những thay đổi vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta… Những đồ dùng kiểu mới ấy chính đã dẫn đường cho tư tưởng mới. Trong công cuộc Duy tân ảnh hưởng của nó ít ra cũng ngang  với ảnh hưởng những sách nghị luận của hiền triết Âu Mỹ cùng những sách cổ động của Khang Lương, Sĩ phu nước ta từ xưa vốn chỉ biết có Khổng Tử bắt đầu dẫn Mạnh Đức Tư Cưu với Lư Thoa, họ bắt đầu viết quốc ngữ...”[1] . Ba năm sau nữa, vào năm 1945, thành công của cuộc cách mạng tháng Tám đã khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với bản tuyên ngôn độc lập mang đầy đủ tinh thần của thời đại về nền “dân chủ, cộng hòa” - phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử nhân loại.
           Từ một nước phong kiến độc lập vốn dĩ đã nghèo nàn, Việt Nam còn tự làm yếu mình khi cô lập với thế giới bằng chính sách “ bế quan tỏa cảng”, để rồi cuối cùng dẫn đến việc trở thành thuộc địa của Pháp vào cuối thế kỷ 19.
          Năm 1897, sau khi dập tắt phong trào đấu tranh vũ trang cuối cùng của nhân dân Việt Nam dưới ngọn cờ Cần Vương do các trí thức phong kiến lãnh đạo[2],  Pháp bắt đầu lần lượt thực hiện hai chương trình khai thác thuộc địa  ở Việt Nam [3]. Cho đến năm 1945, dưới tác động của các chương trình khai thác thuộc địa này, nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông dần dần mang tính chất của một nền kinh tế thuộc địa và kéo theo đó là sự thay đổi về thành phần dân cư trong xã hội. Bên cạnh giai cấp nông dân và địa chủ phong kiến, trong xã hội Việt Nam đã xuất hiện những giai cấp mới, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đô thị hiện đại với điện thắp sáng và nước máy xuất hiện cùng các trung tâm công nghiệp. Sự phát triển của hệ thống đường giao thông, cảng, bến tàu, đường sắt, điện thoại[4]… đã đưa Việt Nam hội nhập với thế giới hiện đại.
         Như vậy, chỉ trong vòng hơn 30 năm đầu thế kỷ XX, một sự thay đổi lớn đã diễn ra ở Việt Nam không chỉ về cuộc sống vật chất mà cả trong tư tưởng. Đặc biệt, tầng lớp trí thức Việt Nam không còn là những người mà “tư tưởng Khổng giáo đã in sâu vào trong óc […]cái triết lý bình giản của sự làm tròn phận sự, đem hết năng lực tâm trí để vào sự tư tưởng luân lý” với những “ đường đi mà các thế hệ trước đã vạch sẵn cho kẻ làm con, làm cha, làm vợ, làm chồng, làm dâu, làm quan…”[5]  Họ đã cảm thấy rằng:Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu ghét, giận hờn nhất nhất như ngày trước…” [6]. Chính sự thay đổi này đã thúc đẩy họ tìm hiểu thế giới, nhìn nhận lại mình và lựa chọn cho mình con đường để hội nhập.
           Đối với phụ nữ Việt Nam, theo chúng tôi, trong tất cả những thay đổi mà chủ nghĩa thực dân mang lại thì việc giáo dục cho phụ nữ là cội nguồn của mọi sự thay đổi trong đời sống của người phụ nữ, đặc biệt chính sách giáo dục dành cho phụ nữ đã tạo nên một tầng lớp phụ nữ trí thức trong xã hội, những người đi đầu trong việc tiếp nhận và truyền bá những tư tưởng mới, góp phần tạo nên những thay đổi căn bản không chỉ cho giới nữ, mà với tư cách là một nửa xã hội, cùng với truyền thống lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại.
        I. Phụ nữ trí thức trong xã hội Việt Nam những năm nửa đầu thế kỷ XX- Họ là ai?
          Xét về nguồn gốc của khái niệm trí thức (intellectualist) hay giới trí thức (intelligentsia) từ các ngôn ngữ thuộc hệ La tinh [7] hay từ chữ Hán[8] thì người trí thức là những người có năng lực trí tuệ và sự hiểu biết. Họ là những người được đào tạo, nhưng không phải là những người lao động trí óc được hiểu theo cách thông thường, mà là một bộ phận trong số những người lao động trí óc quan tâm đến các giá trị văn hóa của nhân loại, đặc biệt là có ý thức trách nhiệm xã hội mạnh mẽ, có thái độ phê phán đối với nền chính trị đương thời và thường tỏ ra không hài lòng với hiện trạng. Ở Pháp, họ là những nhà văn, nhà báo đấu tranh cho sự công bằng, đại diện cho tinh thần phản kháng với tinh thần cách mạng mạnh mẽ. Ở Nga họ là những người thuộc giới tinh hoa, tiếp thu và truyền bá những tư tưởng mới và cách mạng. Họ cũng là những người thuộc tầng lớp quý tộc như ở Ba Lan, những người đã thiết lập nên một hệ thống giáo dục nhằm đào tạo một tầng lớp ưu tú có ý thức về vai trò lãnh đạo và trách nhiệm xã hội, những người khởi xướng và lãnh đạo nhân dân đấu tranh vì độc lập và tự do của nhân dân Ba Lan[9].
          Ở Việt Nam, trước khi trở thành thuộc địa của Pháp, thiết chế chính trị quân chủ Nho giáo quan liêu đã không cho phép phụ nữ được đi học và đi thi, vì thế phụ nữ cũng không bao giờ có cơ hội tham gia vào bộ máy quyền lực ở bất cứ cấp nào. Việc giáo dục cho phụ nữ chỉ thu hẹp trong phạm vi giáo dục gia đình qua các sách Gia huấn, Nữ  huấn thấm đẫm tinh thần đạo lý Nho gia. Nội dung của Gia Huấn đề cao chữ Hiếu của Nho giáo, tinh thần gia tộc, tư tưởng từ bi nhân ái của Đạo Phật và tính cộng đồng. Trong các cuốn Gia huấnNữ huấn này, người phụ nữ được yêu cầu phải sống theo đúng những chuẩn mực của đạo đức phong kiến Nho giáo từ khi còn ở nhà cùng cha mẹ cho đến khi về nhà chồng và cả đến khi đã nhắm mắt xuôi tay đã đào tạo nên những người phụ nữ của gia đình, luôn tuân thủ các nguyên tắc “tam tòng”, “tứ đức”.[10] Mặc dù trong thực tế, nhiều gia đình quan lại cũng cho con gái học chữ Hán và trong lịch sử Việt Nam đã từng xuất hiện nhiều phụ nữ có học và ít nhiều có tham gia vào đời sống chính trị và văn hóa của dân tộc như Nguyên phi Ỷ Lan, Nguyễn Thị Lộ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm bà Huyện Thanh quan Nguyễn Thị Hinh… Song trong số họ rất ít người có điều kiện thực hiện trách nhiệm của mình theo định nghĩa trên về người trí thức và tầng lớp nữ trí thức chỉ thực sự hình thành ở Việt Nam vào những năm nửa đầu thế kỷ XX, như là sản phẩm của nền giáo dục Pháp, dưới ảnh hưởng của các trào lưu dân chủ và cách mạng từ bên ngoài trên cơ sở kế thừa truyền thống năng động, bất khuất của Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử.
            Ngay sau khi chiếm được Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, việc làm đầu tiên của Pháp là mở trường đào tạo một tầng lớp quan lại chịu ảnh hưởng của Pháp thay thế cho tầng lớp sĩ phu luôn nổi dậy chống Pháp. Tại các trường mới được mở, nội dung giáo dục được Pháp thay đổi từng bước như đưa vào dạy trong nhà trường tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và toán...dần dần tiến tới xóa bỏ việc đào tạo chữ Hán và các kì thi Hán học làm hình thành một hệ thống giáo dục Pháp- Việt ở Việt Nam.
        Mặc dù chính sách văn hóa giáo dục của Pháp còn rất hạn chế và có tính chất nhỏ giọt, nhưng cũng đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và văn hóa ở Việt Nam. Từ những ý kiến ban đầu của các công chức chính quyền có đầu óc cởi mở cho rằng giáo dục phụ nữ là nhằm « nâng cao tinh thần và trình độ đạo đức cho nữ giới, tăng sự đánh giá và tôn trọng cần thiết đối với họ » ( Petrus Ký [11]), giúp cho phụ nữ làm tốt vai trò làm vợ, làm mẹ trong gia đình (Lương Dũ Thúc) [Nông cổ mín đàm-28/8/1902], một số trường học cho nữ giới đã được mở ở Nam Kỳ. Cho đến năm 1886 ở Nam Kỳ có 7 trường với 922 học sinh nữ . Ở Bắc Kỳ có 4 trường tiểu học cho nữ sinh.[12]
            Các trường Cao Đẳng Tiểu học dành riêng cho nữ sinh chỉ có ở Hà Nội (trường Trưng Vương)[13], Huế (trường Đồng Khánh)[14], Sài Gòn (trường Gia Long còn gọi là trường Áo Tím)[15]. Bậc Trung Học (bậc Tú Tài) chỉ có ở Hà Nội (trường Bưởi), Huế (trường Khải Định), Sài Gòn (trường Pétrus Ký)…
         Quy chế chung về giáo dục Đông Dương (Học chính Tổng Quy) ban hành năm 1917[16] quy định bên cạnh việc mở các trường tiểu học ở các xã cho con trai thì tại các tỉnh cũng có thể mở ít nhất một trường công cho con gái. Trong trường hợp chưa có trường riêng cho con gái, thì con trai, con gái có thể học chung một trường, nhưng phải tổ chức dạy riêng cho con gái. Huyện lỵ lớn có trường Tiểu Học, nhưng chỉ các tỉnh lỵ lớn mới có trường Sơ Học hay Tiểu Học dành riêng cho nữ sinh.
           Dưới đây là bản thống kê số nữ sinh và tỷ lệ nữ sinh so với nam sinh.[17]
Năm
Số nữ sinh
Tổng số học sinh
Tỷ lệ
1929
30.000
112.920
24%
1930-1931
38.984
319.792
12%
1938-1939
72.000
524.322
13%
1941-1942
91.129
616.975
13%

        Các Trường Cao đẳng y khoa, Trường cao đẳng sư phạm, Trường Cao đẳng Nông lâm cũng nhận các sinh viên nữ. Trong các trường dạy nghề năm 1941-1942 cũng có khoảng 900 nữ sinh.[18] Nữ giáo viên khoảng 1000 người[19].
        Đối với các trường nữ sinh, Học chính tổng quy quy định mỗi ngày phải dành ra một hoặc hai giờ để học nữ công gia chánh. Trong trường, học sinh bắt buộc phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp[20]. Các sách giáo khoa trong nhà trường Pháp-Việt chủ yếu « rập khuôn » theo mẫu sách dùng trong hệ thống giáo dục của Pháp sau khi đã loại bỏ những nội dung bị coi là nguy hiểm có thể « phá hoại » chế độ thuộc địa, nhất là những sách về lịch sử, địa lý và văn học… Vì vậy, có thể nói ảnh hưởng Phương Tây đối với các nữ sinh khá đậm nét. Những nữ sinh này vì thế được xã hội gọi dưới tên gọi là các « cô gái mới » hoặc các «  tân nữ lưu »…
           Mặc dù số phụ nữ được đi học chỉ chiếm chưa đến 1% dân số và khoảng 18% trong số những người được nhận nền giáo dục Pháp -Việt, nhưng nhiều người trong số họ đã tốt nghiệp trung học, có người tốt nghiệp đại học[21]...Thậm chí trong những năm 1930, phụ nữ Việt Nam đã có người đậu bằng tiến sĩ khoa học (Doctores es sciences) của Pháp như cô Hoàng Thị Nga. Báo Đàn bà mới ngày 17/6/1935 giới thiệu cô là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đậu bằng tiến sĩ Etat.[22]
          Như vậy, theo định nghĩa chung về trí thức của những năm đầu thế kỷ XX, nữ trí thức Việt Nam là những người được đào tạo, tham gia vào lĩnh vực báo chí, truyền bá và đấu tranh bảo vệ những tư tưởng, tham gia các phong trào đấu tranh vì một xã hội mới tốt đẹp hơn như: Sương Nguyệt Anh, Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Trần Thị Như Mân, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Thị Nga, Nguyễn Thị Lựu, Mai Huỳnh Hoa, Phan Thị Bạch Vân, Nguyễn Thị Khang, Nguyễn Thị Chính, Đỗ Thị Bích Liên, Nguyễn Đức Nhuận, Lê Thành Tường, Thuỵ An, Nguyễn Thị Thảo, Nguyễn Thị Thanh Tú, Nguyễn Thị Kiêm., Vân Anh, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Nhã, Vân Đài, Lê Thị Ngọc Sương, Nguyễn Thị Lựu… Các bài báo và các hoạt động của họ góp phần phổ biến những tư tưởng mới, đấu tranh cho sự tiến bộ và quyền bình đẳng của phụ nữ, nhằm thay đổi thực trạng đời sống của phụ nữ vì quyền lợi của phụ nữ dù ít ỏi, số phụ nữ này đã có đóng góp quan trọng trong phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ cũng như phong trào vận động giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
2. Nhận diện về một thế giới mới « không chỉ của riêng đàn ông » của những nữ trí thức thế hệ đầu tiên
          Trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng của các Tân thư trong xã hội Việt Nam cùng với sự ra đời và phát triển của báo chí, nhiều học thuyết tư tưởng mới[23] được du nhập và giới thiệu trên sách báo Việt Nam đã làm dấy lên phong trào Duy Tân không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng mà cả trong mọi mặt của đời sống. Ngay đầu thế kỷ XX bà Sương Nguyệt Anh[24]- đã khởi xướng cuộc thảo luận về « Nữ quyền là gì » trên tờ Nữ giới chung do bà làm chủ bút[25]. Cuộc thảo luận này đã cho thấy nhận thức về quyền của người phụ nữ và vai trò của họ trong xã hội. Trong bối cảnh hội nhập với thế giới, họ bắt đầu ý thức được rằng phụ nữ cần được quyền học tập, những cuốn sách dành cho giáo dục phụ nữ trước đây chủ yếu là những tác phẩm về đạo đức, dạy phụ nữ phải làm tròn bổn phận của mình theo đạo “tam tòng” thì “chắc chắn ngày nay không còn phù hợp” vì thế giới trong sự mường tượng của họ đã thay đổi, nó không còn là “Thế giới […] của riêng đàn ông”, “là thế giới của cả phụ nữ nữa” (Nữ giới chung- 19/7/1918).
            Sau khi Nữ giới chung bị đình bản, từ năm 1918 Đạm Phương Nữ sử[26] liên tục đăng bài trên nhiều tờ báo có uy tín khắp cả nước. Theo khảo sát của Lê Thanh Hiền[27] trong khoảng thời gian từ 1919-1928, Đạm Phương nữ sử đã viết khoảng gần 200 bài báo trong các trang phụ nữ trên các báo, tạp chí ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ như Nam Phong, Hữu Thanh , đặc biệt trên Trung Bắc tân văn trong khoảng thời gian từ 1919-1923, bà đã viết 129 bài trên mục Nhời đàn bà, bà cũng giữ chuyên mục “Lời đàn bà” trên báo Thực nghiệp[28]và phụ trách mục Văn chương nữ giới trên tạp chí Hữu Thanh cùng Phan Thị Lạng.
           Bà cũng là người vận động thành lập một tờ báo dành riêng cho phụ nữ, đó là tờ Phụ nữ tùng san ra đời tháng 5 năm 1929 ở Huế. nhằm mục đích dùng báo chí như một công cụ đấu tranh đắc lực cho quyền tự do dân chủ của con người và quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam. Trong bài “Bàn về giáo dục con cái” trên tờ Trung Bắc tân văn, bà cho rằng thế giới đang thay đổi nên: “Giáo dục phụ nữ là một vấn đề rất quan hệ cho một dân tộc tương lai. Phải giáo dục cho họ có cái gì làm chuẩn đích để sau này ra đời họ biết đạo xử thế.[ …] cuộc đời mỗi con người như con thuyền đi trên mặt nước[...] Chiếc thuyền kiên cố, lái chèo vững vàng là sự mạnh dạn, là học thức rộng rãi để đam đương sự đời” [Trung Bắc Tân văn-24/1/1924].       
           Cùng thế hệ những người phụ nữ viết báo với Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hòa[29] từ rất sớm đã tham gia viết bài cho các báo Thực nghiệp dân báo, Nam Phong, Trung Bắc Tân văn, Tiếng dân…và năm 1927 ý kiến của bà đã mở đầu cho cuộc thảo luận về việc xuất bản một tờ báo cho phụ nữ.
        Cả ba người phụ nữ trí thức thế hệ đầu tiên như Sương Nguyệt Anh, Đạm Phương nữ sử và Huỳnh Thị Bảo Hòa bên cạnh viết báo, phổ biến những quan điểm mới về vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, cũng như truyền bá tư tưởng nữ quyền bằng cách cổ động cho phụ nữ quyền được giáo dục và có việc làm- 2 trong 3 nội dung cơ bản của thuyết nữ quyền tự do, đều sáng tác văn học để chuyển tải nhận thức của mình. Các tác phẩm văn học của Sương Nguyệt Anh trên Nữ giới chung đã khơi dạy trách nhiệm của phụ nữ trước vận mệnh dân tộc, noi gương Trưng Trắc, Trưng Nhị và Triệu Thị Trinh. Đạm Phương nữ sử ngoài chuyện dài Kim Tú Cầu[30], còn có Chung Kỳ vinh[31], Hồng phấn tương tri[32],Đạm Phương thi văn tập.
       Huỳnh Thị Bảo Hòa, tuổi 31(năm 1927), đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân in tại nhà in Bảo Tồn (36 bis Boulevard Bonnard Sài Gòn). Câu chuyên Tây phương mỹ nhân viết về một người phụ nữ nước ngoài vì tình yêu đối với một người đàn ông Việt Nam đã vượt qua bao trở ngại, khó khăn để đạt tới sự đoàn tụ và hạnh phúc. đã gửi tới một thông điệp về vấn đề quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ khỏi những thành kiến hẹp hòi của xã hội ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là quyền mưu cầu hạnh phúc và đấu tranh cho quyền được hạnh phúc, quyền được quyết định cuộc sống của người phụ nữ và thái độ bao dung trong thời đại hội nhập toàn cầu.
         Nhìn chung lại, thế hệ phụ nữ trí thức đầu tiên này là sản phẩm của một giai đoạn chuyển đổi, họ đều là những người phụ nữ thuộc tầng lớp trên, được nuôi dạy theo truyền thống Nho giáo đã sớm nhận ra rằng thời đại đã thay đổi, để hội nhập với thế giới, người Việt Nam và phụ nữ Việt Nam cũng phải thay đổi. Trong khi một thế hệ mới, được đào tạo theo tinh thần giáo dục hiện đại của phương Tây chưa định hình, họ đã nhanh chóng học hỏi, sử dụng ngòi bút của mình khẳng định vai trò của người phụ nữ trong xã hội, phê phán cách xã hội đối xử với phụ nữ cho dù cách tiếp cận và phương pháp thể hiện của họ khác nhau. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập thế giới của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX với câu chuyện tình vượt biên giới như Tây phương mỹ nhơn, Huỳnh Thị Bảo Hòa đã đi tiên phong trong việc thay đổi nhãn quan văn hóa cho xã hội, xóa bỏ sự kỳ thị chủng tộc mà cho đến ngày nay nó vẫn còn mang tính thời sự.

3. Hành trình thay đổi nhận thức để hội nhập với thế giới của tầng lớp nữ trí thức hình thành sau chiến tranh thế giới I

         Sau chiến tranh thế giới I, trong thập niên 1920, chương trình khai thác thuộc địa, chính sách giáo dục và ảnh hưởng của phong trào phụ nữ thế giới đã tác động đến phụ nữ và dư luận xã hội ở Việt Nam. Các nữ trí thức Việt Nam hình thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất sớm nhận thức được rằng: Để hội nhập với thế giới, trước hết phải thay đổi quan niệm của công chúng. Theo bước chân của các nhà nữ quyền thế giới, phụ nữ trí thức đã xuất bản sách, báo chí, tổ chức đi diễn thuyết, tổ chức Hội chợ phụ nữ để truyền bá những tư tưởng mới vào Việt Nam.
         Năm 1929, sau những vận động tích cực của những phụ nữ trí thức như bà Đạm Phương,Nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hòa… tờ báo Phụ nữ Tân văn[33] ra đời, mở đầu cho dòng báo phụ nữ ở Việt Nam vào thập niên 1930.[34]
        Các tờ báo phụ nữ ra đời cùng với các trang phụ nữ trên các báo đã trở thành một kênh truyền đạt thông điệp của phụ nữ về những vấn đề của giới mình. Trên các tờ nữ báo, các nữ trí thức Việt Nam đã mở ra những cánh cửa cho phụ nữ Việt Nam không chỉ nhìn ra thế giới, tìm hiểu xem phụ nữ các nước đã và đang làm gì, mà còn chỉ ra phụ nữ Việt Nam đang ở đâu trong sự phát triển chung của nhân loại, họ cần phải làm gì để hội nhập với thế giới. Báo chí cũng nối kết phụ nữ trong khắp mọi miền đất nước qua những mối quan tâm chung, để từ đó hình thành nên một lực lượng xã hội có tiếng nói trong đời sống chính trị của đất nước cũng như trở thành một phần của cộng đồng phụ nữ toàn cầu.
3.1. Tìm hiểu thế giới và lựa chọn con đường đi.
         Trên  các tờ báo phụ nữ và trên các chuyên mục dành cho phụ nữ của các tờ báo, các nhà báo nữ góp phần giới thiệu các phong trào phụ nữ trên thế giới[35]. Báo chí đưa tin về các hội nghị phụ nữ quốc tế [36] …Đặc biệt tình hình phụ nữ Xô Viết được nhiều báo giới thiệu. Báo Tràng An ngày 2/7/1935], báo Đàn Bà Mới ngày 8/6/1936…đã giới thiệu những con số thống kê về phụ nữ Nga tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, những tấm gương phụ nữ đạt những thành tích cao trong nghiên cứu khoa học, thể thao. Các bài báo cho biết các Hội nghị phụ nữ quốc tế đã thu hút được sự tham gia của phụ nữ ở hầu hết các nước Châu Á như Trung Quốc, Tây Tạng, Ấn Độ, Ba Tư, Tây Á lợi Á… và nhấn mạnh việc phụ nữ Việt Nam chưa có mặt trong cuộc Hội nghị này thật: “Đáng thương, đáng tủi cho danh phận của phụ nữ Việt Nam lắm".
         Báo chí cũng chú ý giới thiệu những phụ nữ tiêu biểu trong phong trào phụ nữ thế giới như các bà Macgorit, bà Irene Joliot Cuirie, bà Elenor Rooseven, Krupskaia, Trịnh Dục Tú, Tống Khánh Linh,.. Rose Lacombe, Olympe de Gouges, Theroinge-’ [Tân thời-11/4/1935]; đặc biệt là những người phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực báo chí như bà Louise Weiss -“ một người đàn bà đáng gọi là hoàn toàn cả tai trí lẫn đức hạnh”- là người xuất bản tạp chí Europe Nouvell; bà Lone Brunshwicg - chủ nhiệm báo La Francaise, sáng lập viên Union Francaise pour le sufrage de femmes ( Hội liên hiệp phụ nữ đòi quyền bầu cử), bà luật sư Maria Verone “hàng tuần vẫn cổ động phụ nữ nước Pháp bằng những bài luận đanh thép đăng trong báo L Europe”[Đàn bà mới- 2/3/1935]... Trong các bài báo này, các tác giả thường có những câu bình luận, so sánh, vạch rõ tình trạng lạc hậu, thua kém phụ nữ thế giới của phụ nữ Việt Nam với thông điệp: Phụ nữ Việt Nam phải thay đổi để hội nhập với thế giới.
3.2. Tái nhận thức về vai trò của người phụ nữ trong xã hội, truyền bá tư tưởng nữ quyền và giải phóng phụ nữ qua hoạt động xuất bản sách báo
          Trên báo chí, các nữ trí thức đã phân tích những thay đổi trong xã hội Việt Nam, họ luôn khẳng định những đóng góp của phụ nữ trong gia đình và nhấn mạnh phụ nữ phải học tập “mới có thể thích ứng với nền kinh tế mới[…] Phụ nữ muốn được sinh tồn và tiến hóa, trước hết phải có học vấn đầy đủ và thích hợp vơí sinh hoạt mới…” [Phụ nữ tân tiến- 1//1/1933], phụ nữ cần phải có một việc làm để không bị phụ thuộc vào nam giới, có thể tự lập và đó cũng là trách nhiệm đối với xã hội [37], phụ nữ cũng phải có quyền bầu cử, ứng cử vì phụ nữ đã “không bỏ thiếu bổn phận nào của người công dân…nhưng không được chút quyền lợi nào, ngay cả quyền lựa chọn người trực tiếp làm cho chính phủ cũng không được.” Năm 1934, báo Phụ nữ tân văn đã đưa ra những “thông điệp mạnh mẽ[38]của những người có đầu óc cấp tiến về cuộc đấu tranh giai cấp” và đấu tranh giải phóng dân tộc, đặt vấn đề giải phóng phụ nữ phải gắn với giải phóng dân tộc, phê phán những hạn chế, lệch lạc và phi thực tế của phong trào vận động nữ quyền tư sản, giới hạn nữ quyền trong viêc đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ và phụ nữ chức nghiệp...
         Báo Phụ nữ tân văn cũng đăng nhiều bài của phụ nữ trí thức đấu tranh với các quan điểm sai lầm trong nhận thức về các vấn đề bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ như các bài của Nguyễn Thị Khang[39] - phản đối quan điểm phê bình phong trào giải phóng phụ nữ của Nguyễn Văn Vĩnh trên báo Le Monde ngày 21/12/1933 và trên báo Phụ nữ tân văn ngày 13/1/1934. Nguễn Văn Vĩnh cho rằng không cần đòi nữ quyền vì phụ nữ Việt Nam cũng có người làm bà chủ, có người học cao... Bà đặt câu hỏi: trong mười triệu phụ nữ An Nam mấy người được là bà chủ? Và khẳng định “Phụ nữ bất bình về chế độ đa thê, chỉ riêng cái chế độ đó đủ chứng tỏ phụ nữ đau khổ và bị áp bức... Phụ nữ Việt Nam yêu cầu phổ thông giáo dục, yêu cầu được vào làm sở công và tư, lương bằng lương đàn ông và được bồi hoàn trước và sau khi đẻ và những cơn đau ốm. Phụ nữ lại yêu cầu những cách thức ủng hộ đặc biệt trong khi làm ở các nơi khó khăn như hầm mỏ, xưởng máy...’[Phụ nữ tân văn-13/1/1934]
         Nữ nhà báo Nguyễn Thị Lan (Bình Tây) đề nghị “cần có một ý nghĩa chánh cho cuộc vận động giải phóng phụ nữ”  và “đừng trông nhờ những kẻ không giống quyền lợi với mình giúp mình, mưu hạnh phúc cho mình”, chỉ có mình mới giúp được mình mà thôi [Công luận-25/5/1932].
         Đặc biệt cuộc thảo luận mang tính học thuật về “Nhân sinh quan với giải phóng phụ nữ” giữa Phan Khôi, một nhà báo kỳ cựu và Nguyễn Thị Chính[40] trên báo Phụ nữ tân văn [41]. Cuộc thảo luận này đã được Shawn Mc. Hale coi là “làm nền cho nhiều cuộc thảo luận đương thời về “cô gái mới” và gia đình- hai chủ đề rất được phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu thời bấy giờ quan tâm”[42]
           Năm 1938, nhà xuất bản Tân dân đã xuất bản cuốn Vấn đề phụ nữ của Nguyễn Thị Kim Anh[43] trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin về địa vị của người phụ nữ trong lịch sử loài người, từ xã hội nguyên thủy cho tới xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản và  xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, bà dành nhiều trang để giới thiệu về địa vị của phụ nữ trong xã hội Xô viết và phân tích tình hình “Phụ nữ ở Đông Dương”. Cuối cùng bà kết luận: “Vấn đề phụ nữ là vấn đề xã hội, cần phải đưa nó ra giải quyết ở phạm vi một nước, một xã hội”.
          Ngoài cuốn sách của Nguyễn Thị Kim Anh về Vấn đề phụ nữ xuất bản  năm 1938 còn có một số cuốn sách khác như cuốn Vấn đề bình đẳng tự do của Đỗ Thị Bích Liên giới thiệu những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mac. Trong lời nói đầu Đỗ Thị Bích Liên khẳng định rằng ai cũng muốn được bình đẳng và tự do, nhưng “muốn hiểu bình đẳng tự do một cách chính đáng chúng ta phải hiểu nó theo quan niệm của Marx và Anghens là những người phát minh ra chủ nghĩa xã hội theo khoa học, là những người dẫn dắt chúng ta đi đúng đường, đúng lối để tranh đấu cho một thực hiện xã hội đầy ánh sáng, đầy nhân đạo[44]
         Trong thời kỳ Mặt trận bình dân 1936-1939 nhiều nữ trí thức cũng đã viết bài tuyên truyền quan điểm của Đảng Cộng sản về công cuộc vận động phụ nữ, đấu tranh với những quan điểm sai lầm trong phong trào phụ nữ giải phóng như Nguyễn Thị Lựu, Mai Huỳnh Hoa, Nguyễn Thị Thu..., đặc biệt các bài viết của Nguyễn Thị Minh Khai dưới bút danh Nguyễn Thị Kim Anh, Kim Anh... đã góp phần truyền bá rộng rãi tư tưởng nữ quyền và giải phóng phụ nữ, đồng thời chỉ ra, trong điều kiện của một nước thuộc địa như Việt Nam vấn đề giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.     
       3.3. Diễn thuyết, tuyên truyền về nữ quyền và giải phóng phụ nữ
        Diễn thuyết là cách thức tuyên truyền và thuyết phục công chúng được sử dụng khá phổ biến ở các nước phương Tây, những nhà hoạt động nữ quyền thế giới thời kỳ này cũng đã sử dụng phương thức diễn thuyết để truyền bá tư tưởng của mình và vận động công chúng, nhưng đối với phụ nữ Việt Nam, những người chưa từng có tiếng nói trong các sinh hoạt cộng đồng thì đây là hoạt động mới mẻ. Có thể thấy, những phụ nữ trí thức Việt Nam thời kỳ này đã nỗ lực vượt lên chính mình, không chỉ thể hiện quan điểm của họ trên báo chí mà còn khắc phục sự e thẹn vốn có của nữ giới trực tiếp diễn thuyết nơi công cộng trước sự chứng kiến của nhiều người không chỉ về các vấn đề liên quan đến quyền lợi của phụ nữ mà cả về những vấn đề khác.
         Buổi diễn thuyết đầu tiên của phụ nữ được ghi nhận là tại Hội chợ phụ nữ từ ngày 4-7/5/1932 tại Sài Gòn. Trong thời gian diễn ra Hội chợ, nhiều nữ trí thức đã đứng ra diễn thuyết về các chủ đề đang được xã hội quan tâm:  Phụ nữ với Hội Dục anh (cô Ngọc Thanh, tối 4/5/1932);  Nữ lưu với văn  học ( Nguyễn Thị Kiêm, tối 5/5/1932). Phụ nữ với thể dục ( Bùi Thị Út tối 6/5/1932), Phụ nữ giải phóng (Phan Văn Gia tối 7/5/1932); “Vấn đề quốc văn” (Thụy An ngày 8/5/1932). Báo Phụ nữ thời đàm ngày 29/10/1933 cho biết, bà Thụy An được đánh giá là người có tài diễn thuyết nhất so với các nữ diễn giả khác.
          Một loạt các cuộc diễn thuyết khác được tổ chức sau dó vào năm 1933 như cuộc diễn thuyết tối ngày 26/7/1933 tại Hội khuyến học Sài Gòn của cô Nguyễn Thị Kiêm, phóng viên báo Phụ nữ tân văn về vấn đề Thơ mới, cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Nga ở Hà Nội về “Phụ nữ với thể dục”, “Có nên bỏ chế độ đa thê không?” , cuộc diễn thuyết của bà Lê Dư tại Hà Nội ngày 31/3/1933 về “ Nhân cách phụ nữ”.
           Riêng cô Nguyễn Thị Kiêm năm 1934 có cả một chương trình đi diễn thuyết khắp từ Nam ra Bắc về các vấn đề của phụ nữ. Tại cố đô Huế tháng 5/1934 cô diễn thuyết về “Dư luận nam giới đối với hạng phụ nữ tân thời”. Tại Quảng Trị, ngày 8/5/1934 cô diễn thuyết về đề tài “Dư luận nam nữ đối với phụ nữ tân tiến”. Tại Nam Định ngày 8/9/1934, cô diễn thuyết về chủ đề “Một ngày của một người đàn bà tân tiến”, tại Hải Phòng ngày 3/11/1934 cô diễn thuyết về đề tài “Có nên tự do kết hôn không”...
       Về các buổi diễn thuyết của phụ nữ báo Đông Pháp đưa tin: “công chúng ồ ạt kéo đến hội quán phố Hàng Trống như nước chảy, lũ lượt bọn năm, bọn ba, ông có, bà có, trai có, gái có đến nỗi mấy bác nhà quê ngơ ngác hỏi nhau: Họ đi xem hội gì đông thế?” ... Như vậy, rõ ràng những cuộc diễn thuyết của phụ nữ đã để lại dấu ấn trong đời sống xã hội Việt Nam.
            3.4 Thành lập các tổ chức phụ nữ: các Hội nữ công, Nữ lưu thư quán và các Phòng đọc sách
        Không chỉ truyền bá các tư tưởng mới, các nữ trí thức còn chú ý tới việc vận động phụ nữ tham gia vào các tổ chức phụ nữ. Nhiều loại Hội đã được thành lập như Nữ công học hội, Nữ lưu văn học hội…tại một số thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Nam Định…
Nữ công học hội  ở Huế thành lập vào ngày 15 tháng 6 năm 1926 được đánh giá là tổ chức phụ nữ đầu tiên do Đạm Phương nữ sử làm Hội trưởng, bà Trần Thị Như Mân làm Tổng thư ký và một số ủy viên khác. Hội có tôn chỉ, điều lệ ghi rõ mục đích thành lập và các quy định cụ thể.
          Trong bài diễn văn Khai mạc nhân ngày thành lập hội bà Đạm Phương đã tuyên bố rõ quan điểm của hội là “gây cho quần thoa một cái tinh thần tự lập bằng cái nghề nghiệp của mình, trong cái vi phạm đạo đức tri thức Đông Phương với Tây Phương hòa hợp. Sau hết là kết một dây đoàn thể để bênh vực quyền lợi cho nhau.”[45]
          Hoạt động của Hội đã thu hút nhiều thành viên từ ba miền Bắc, Trung, Nam và Lào tham gia sinh hoạt theo định kỳ. Hội tổ chức dạy chữ cho những hội viên chưa biết chữ có thể đọc thông viết thạo, tổ chức dạy chuyên đề để nâng cao hiểu biết cho những hội viên đã biết chữ; dạy nghề…[46]
Hội cũng xuất bản sách, cung cấp tri thức, và kinh nghiệm tổ chức gia đình, nuôi dạy con cái, đồng thời tạo điều kiện cho chị em làm quen với hoạt động tập thể, tiến tới tham gia công việc xã hội, trở thành chỗ dựa cho phong trào nữ học sinh trường Đồng Khánh, trường Quốc học Huế bãi khoá. Ảnh hưởng của Hội lan truyền khắp cả nước, đã dấy lên phong trào hoạt động xã hội tích cực của phụ nữ ở các vùng Vinh, Thanh Hoá, Hà Nội, Hải Phòng, Hội An, Nha Trang, Sài Gòn, Gia Định, Cần Thơ... Ở các Hội nữ công này đều có vai trò của những phụ nữ trí thức như ở Hội An, Hội nữ công do bà Huỳnh Thị Bảo Hòa đứng đầu, ở Nam Định bà Phạm Tuấn Tài và bà Đặng Vũ Lễ thành lập và làm Hội trưởng. Nhìn chung, các hội nữ công đều tập trung vào việc giáo dục phụ nữ và phát triển công nghệ dành cho nữ giới, đồng thời là chỗ dựa cho các phong trào đấu tranh yêu nước, tổ chức Hội chợ phụ nữ, hoạt động cứu trợ  trong các dịp thiên tai…
              Bên cạnh tổ chức của bà Đạm Phương nữ sử, một tổ chức hoạt động có hiệu quả là Nữ lưu thư quán của Phan Thị Bạch Vân[47], trụ sở ở số nhà 24 - 26, đường Chủ Phước, Gò Công.
Là một cơ quan xuất bản sách, Nữ lưu thơ quán  xuất bản mỗi tháng 3 kỳ theo tiêu chí“Lựa chọn để bán ra cho cả thảy chị em bạn gái bằng cái giá thật hạ những truyện sách xuất bản trong xứ, có ích cho tinh thần đạo đức và nền luân lý nước nhà, giúp cho trí thức nữ lưu được chóng mở học vấn thêm cao. Trước tác, sưu tập, dịch thuật và lãnh xuất bản những cảo văn thật có giá trị về chánh trị, lịch sử, truyện ký, tiểu thuyết, phụ nữ vấn đề, nữ công, văn học, khoa học, thương mại và thiệt nghiệp... Những sách nhảm nhí thuộc về tình ái dâm phong, hoặc tả theo những lối quái dị trái hẳn với thể thống nước nhà, thì bao giờ cũng cự tuyệt”..[48]
  Ảnh hưởng của Nữ lưu thơ quán khá rộng. Các văn sĩ như Mộng Tuyết, Đông Hồ trong hồi ký của mình cho biết đã từng say mê đọc bộ sách Nữ lưu tùng thư của Phan Thị Bạch Vân cùng với các sách báo cấm khác. Nhà văn Nguyễn Vỹ trong Tuấn, chàng trai nước Việt cho biết cùng với sách của Nam đồng thư xã của Nhượng Tống, sách Quan Hải tùng thư của Ðào Duy Anh và Trần Thị Như Mân, sách của Nữ lưu thơ quán ở Gò Công là ba loại sách đã “đào tạo cho thanh niên một tinh thần cách mạng và bồi dưỡng lòng ái quốc hăng say”, là “sách để đầu giường” của thanh niên học sinh và rằng đầu thế kỷ XX.
  Bản thân Phan Thị Bạch Vân cũng trực tiếp viết xã thuyết, làm thơ, sáng tác tiểu thuyết và dịch thuật … [49]
 Do công khai truyền bá tư tưởng “thương nước thương dân, lo cho hậu vận nước nhà, ham mến quốc văn, bảo tồn quốc túy”,  ngày 10-2-1930, Phan Thị Bạch Vân bị thực dân Pháp đưa ra tòa “về tội phá rối cuộc trị an trong xứ bằng văn chương tư tưởng” . Ngày 14/2/1930 báo Thần Chung đưa tin: Phan Thị Bạch Vân bị ra tòa án Mỹ Tho vì đã xuất bản cuốn Nữ anh tài. Cô bị kết tội “Mượn văn chương xui đàn bà làm quốc sự cũng như đàn ông. Tuy là cô xui đàn bà, nhưng cô có ý khuyến khích đàn ông nên tận tụy lo về quốc gia chủng tộc
Chỉ tồn tại trong vòng chưa đầy hai năm, Nữ Lưu thư quán đã tập hợp được một số tác giả tiến bộ và đã xuất bản nhiều tác phẩm văn học, khoa học, giáo dục…có giá trị. Thư quán cũng góp phần truyền bá những tư tưởng dân chủ, tiến bộ, những kiến thức khoa học cho thanh niên, đặc biệt cho phụ nữ. Vào đầu thế kỷ XX, bằng hành động xuất bản sách và sáng tác của mình, Phan Thị Bạch Vân là một minh chứng thuyết phục về khả năng của “nữ lưu” có thể sánh vai với nam giới trong mọi lĩnh vực.
Bên cạnh phòng đọc sách và Nữ lưu thư quán của Phan Thị Bạch Vân ở Gò Công, ở Sài Gòn có phòng đọc sách của Nguyễn Thị Phương Hoa làm Tổng thư ký. Ở các địa phương khác, nhiều phòng đọc sách cho phụ nữ cũng xuất hiện như phòng đọc sách của Nguyễn Thị Trãng ở Sài Gòn, phòng đọc sách của bà Hoàng Đắc Vinh ở Faifo (Hội An)... [Hoàn cầu tân văn-15/9/1934]
Ngoài Nữ lưu thư quán, một số nữ trí thức khác còn lập Salon văn học làm nơi các phụ nữ trí thức đàm đạo về những tư tưởng mới, về văn học và nghệ thuật…          
 3.5. Tổ chức Hội chợ Phụ nữ
         Vấn đề nghề nghiệp cho phụ nữ được nhiều tác giả coi là một yếu tố quan trọng để mang lại quyền bình đẳng cho phụ nữ, “là một cái chìa khoá mở cửa phụ nữ giải phóng’’ [Zân Báo -14/10/1933], là một mục tiêu quan trọng của công cuộc vận động nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Để cổ động cho việc này những phụ nữ trí thức Việt Nam, các nữ nhà báo, ban lãnh đạo Hội nữ công Huế và đặc biệt là ban biên tập của Phụ nữ tân văn đã tổ chức các cuộc Hội chợ Phụ nữ. Trong bài xã luận chuẩn bị cho việc tổ chức Hội chợ, báo Phụ nữ tân văn nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của lao động phụ nữ cũng như ý nghĩa của việc tổ chức hội chợ: “Công nghệ phụ nữ cũng có dự một phần trong văn hóa nước nhà, nhờ có cuộc đấu xảo mà bắt trước nhau, cùng đồng nhất và tấn tới thế thì cũng có công với văn hóa vậy” [Phụ nữ tân văn-21/4/1932].
           Cuộc đấu xảo mỹ nghệ phụ nữ tại Huế vào đêm 22-23 tháng 12 năm 1931 [50] là cuộc Hội chợ phụ nữ đầu tiên được tổ chức theo kinh nghiệm của các nhà nữ quyền thế giới, do Hội Nữ công Huế đứng ra tổ chức có sự tham gia của đại diện phụ nữ khắp 3 miền.
                Thành công của Hội chợ Đêm ở Huế  đã khuyến khích ban biên tập Phụ nữ tân văn tổ chức Hội chợ phụ nữ ở Sài Gòn từ ngày 4/5/1932 đến ngày 8/5/1932. Đây là Hội chợ lớn thu hút sự chú ý của người dân. Kết quả Hội Chợ bên cạnh mục đích quảng bá cho các sản phẩm văn hóa của phụ nữ, khuyến khích phụ nữ gìn giữ và phát triển nghệ thuật ẩm thực, sáng tạo các sản phẩm thủ công truyền thống, quan trọng hơn là giúp nó khỏi “thất truyền đi nữa” [Phụ nữ tân văn - 7/4/1932]. Các cuộc hội chợ này còn được tổ chức để lấy tiền ủng hộ đồng bào bị bão lụt ở Nghệ Tĩnh, giúp cho Hội Dục Anh phát triển.

         4. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc là lựa chọn con đường đi phù hợp với xu thế của thời đại.
         Nằm trong bối cảnh của “Làn sóng thức tỉnh dân tộc chủ nghĩa thứ hai” khi mà phong trào giải phóng dân tộc đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới và đang trở thành xu thế tất yếu của thời đại thì lựa chọn tham gia vào phong trào giải phóng dân tộc là một lựa chọn giúp người phụ nữ Việt Nam vừa có thể thực hiện được yêu cầu riêng của giới nữ là giải phóng phụ nữ, vừa góp phần vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc. Trong điều kiện là một nước thuộc địa, nhiều phụ nữ trí thức đã lựa chọn con đường tham gia vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Trần Thị Như Mân là một trong những ví dụ tiêu biểu cho hành trình đi từ phong trào giải phóng phụ nữ tới phong trào giải phóng dân tộc. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học, bà được tuyển dụng làm giáo viên trường Đồng Khánh. Trong hồi ký của mình bà cho biết, nhờ có những mối quan hệ thân thiết với Đạm Phương nữ sử và những thanh niên yêu nước khác mà bà đã biết tin tức và tình hình thời cuộc. Bà đã viết thư gửi Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne xin ân xá cho Phan Bội Châu vì muốn học tập những người bạn nữ của bà ở Hà Nội, những người đã chặn xe của Toàn quyền Đông Dương “để xin ân xá cho người anh hùng của chúng tôi[51]. Sau hoạt động chính trị này Trần Thị Như Mân đã trở nên có ý thức hơn về các hoạt động chính trị của mình, bà đã tham gia như một trong những người sáng lập ra Nữ công học hội Huế cùng bà Đạm Phương và tích cực tham gia, ủng hộ phong trào tổ chức “Truy điệu nhà yêu nước Phan Châu Trinh” năm 1926. Bà bị sa thải khỏi trường Đồng Khánh, vì bị coi là người đứng đầu và tổ chức cuộc bãi khóaSau một thời gian làm biên tập viên cho tạp chí Ph N Tùng San  bà tham gia hoạt động trong tổ chức Tân việt Cách mạng ĐảngBà đã bị chính quyền thực dân bắt và kết án năm năm tù vì tội cất giấu tài liệu cộng sản trong nhà của mình. Cùng hoạt động với Trần Thị Như Mân còn có nhiều phụ nữ trí thức đã tích cực tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng đồng thời là các nữ Đảng viên Đảng Tân Việt như: Trần Thị Hường, Nguyễn Thị Hồng, Võ Thị Trang, Đỗ Thị Trâm, Hoàng Thị Hải Đường, Hoàng Thị Vệ. Không chỉ viết báo tuyên truyền tinh thần yêu nước, các nữ trí thức này cũng đứng ra tuyên truyền vận động phụ nữ tham gia các tổ chức Cách mạng như Phụ nữ Đoàn thuộc Tân Việt cách mạng Đảng.
        Các tài liệu của Trung tâm lưu trữ quốc gia Pháp cho biết nhiều nữ sinh cũng bị đuổi khỏi Trường cao đẳng tiểu học nữ ở Hà Nội đã tham gia vào các hoạt động "chính trị" tại trường và vì mối liên hệ của họ với Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên [52]. Một số khác thì bị bắt vì tham gia tổ chức Việt Nam Quôc Dân Đảng [53]
Cùng với việc tuyên truyền cổ động trên báo chí, những cán bộ phụ nữ, những người được đào tạo trong các lớp huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu như Nguyễn Thị Minh Khai đã đi rải truyền đơn, tuyên truyền, tổ chức và đào tạo các cán bộ nữ của Đảng ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy. Chị Nguyễn Thị Hợi cũng là một giáo viên trực tiếp cầm cờ đỏ búa liềm đi đầu cuộc biểu tình ở Hà Nội để ủng hộ phong trào Xô viết Nghệ tĩnh. Ở Nhà Bè Sài Gòn, chị Trần Thị Hân là một nữ sinh đi vô sản hóa đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của 400 anh chị em công nhân hãng dầu Xô-cô-ny ngày 23/3/1931. Trong cuộc đấu tranh này chị Hân đã đứng lên diễn thuyết kêu gọi anh chị em công nhân đấu tranh.
Những hoạt động tuyên truyền, vận động phụ nữ đã có tác động lớn đến phong trào đấu tranh, thúc đẩy phụ nữ tham gia đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tôc.Báo Người Lao khổ số 13 ngày 18/9/1930 đã viết về vai trò của phụ nữ trong các cuộc đấu tranh: “Cuộc đấu tranh dữ dội này cũng như cuộc đấu tranh dữ dội khác ở Thanh Chương, Bến Thuỷ, Can Lộc, Hà Tĩnh đều do chị em phụ nữ chỉ huy, mà đâu đâu chị em cũng rất dũng cảm hi sinh”.
Năm 1936-1939, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít đang đe dọa thế giới, Mặt trân dân tộc thống nhất được thành lập nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống chiến tranh, phụ nữ trí thức Việt Nam cũng viết nhiều bài báo, vận động phụ nữ tham gia chống chủ nghĩa phát xít theo chủ trương của quốc tế cộng sản như một lực lượng chính trị đặc biệt, có tổ chức. Cuộc họp để thảo luận tập dân nguyện của phụ nữ trí thức ba kỳ trong cuộc vận động Đông Dương Đại hội đã được báo chí đánh giá là “lần thứ nhất ở Đông Dương nữ giới ba kỳ biết hiệp hội để làm chính trị” [Đà bà mới-26/10/1936]
Phụ nữ trí thức Việt Nam cũng hăng hái tham gia Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, hòa chung phong trào chống chủ nghĩa phát xít của lực lượng dân chủ thế giới.
 Trong cuộc vận động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, các nữ sinh, phụ nữ trí thức cũng tích cực tham gia vào cuộc vận động quần chúng chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Hồi ký của bà Hoàng Thị Hà cho biết: Các chị em đã xây dựng thành những tổ 3 người tuyên truyền, tập hợp chị em tiểu thương, mua vải, may cờ, mua vũ khí, quyên góp tiền ủng hộ Việt Minh, rải truyền đơn, kể cả đi diễn thuyết tại các tuyến tầu điện, trong các nhà hát, rạp chiếu phim, tổ chức mít tinh[54]… Bà Lê Thi kể lại bà đã phát báo Cứu Quốc cho chị em bạn bè đọc, thuyết phục, vận động họ ủng hộ Việt Minh hoặc tham gia các đoàn thể của Việt Minh[55].
           Ở Hà Nội và các địa phương, sự tham gia của phụ nữ trí thức đã góp phần quan trọng vào thành công của cuộc cách mạng: Các nữ sinh Hà Nội trong tổ chức Việt Minh lúc đó đã chia nhau đến từng nhà vận động mọi người tham gia, dán cờ đỏ sao vàng bằng giấy, giấu sẵn trong người và cùng kéo tới quảng trường Nhà hát lớn để dự mít tinh …Tại cuộc mit tinh, hai phụ nữ trí thức đại diện của Mặt trận Việt Minh là bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng, đảng viên Đảng Dân chủ, và bà Từ Anh Trang, thành viên Hội Phụ nữ Cứu Quốc, Tự vệ Chiến đấu lên giới thiệu về Mặt trận Việt Minh, về việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở đầu cho cuộc tuần hành vĩ đại bằng khẩu hiệu: “Ủng hộ Việt Minh”. Bà Lê Thi là người đã tham gia cuộc tuần hành hôm đó cho biết phụ nữ tham gia rất đông. Thiếu nữ Hà Nội áo dài quần trắng. Chị em tiểu thương thì mặc quần đen áo cánh. Chưa bao giờ phụ nữ đi bộ ngoài phố đông như thế, vừa đi vừa vẫy cờ, vung tay hô khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh và hát vang các ca khúc “Diệt phát xít”, “Du kích ca”, “Tiến quân ca”..[56]  Các chị Hà Thị Quế, Trương Thị Mỹ, Phan Thị Nể, Nguyễn Thị Định, Trần Thị Nhường[57]… đã lãnh đạo giành chính quyền tại các địa phương…
         Tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi đã giải phóng cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ hàng trăm năm của chủ nghĩa thực dân Pháp, tạo những cơ sở pháp lý, những nền móng đầu tiên cho việc thực hiện quyền con người và quyền bình đẳng nam nữ. Sự tham gia đông đảo của phụ nữ trong các cuộc đấu tranh đã góp phần vào thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà công nhận quyền bình đẳng nam nữ - một xu thế tất yếu của thời đại đã khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của phụ nữ trí thức Việt Nam về con đường Hội nhập để tồn tại và phát triển.
             Thay cho lời kết
        Như vậy, sau gần 30 năm, kể từ ngày đầu tiên còn mơ hồ và đầy mâu thuẫn khi đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Nữ quyền là gì?” trên báo Nữ giới chung năm 1918, phụ nữ trí thức Việt Nam đã đi đến quyết định lựa chọn con đường để hội nhập là tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trên con đường này, có những người đã theo tới cùng, cũng có những người dừng lại ở nửa đường.  Rõ ràng đây hoàn toàn không phải là con đường dễ dàng. Họ đã từng phải trăn trở trong việc lựa chọn từ bỏ di sản gì và tiếp thu cái mới nào? Làm một người “đàn bà cũ” đầy đức hi sinh, căm cụi làm việc vì gia đình “ngày nào cũng như ngày nào, năm nào cũng như năm nào bà yên lặng sống, cam phận sống, sống cho tới lúc trong quãng đồng không người ta vùi nông bà dưới ba tấc đất”, một hình ảnh khiến “ mọi người đều cảm động, ngậm ngùi” hay làm một người “đàn bà mới” “trước khi nhận ra nhiệm vụ của mình trong xã hội... cần phải hiểu mình có sống. Đó là bổn phận trọng yếu nhất: bổn phận làm người. Người “đàn bà mới” thật sự cũng không thua các chị em xưa về sự quán xuyến trong gia đình. Hơn nữa người “đàn bà mới”  biết trông xa, hiểu rộng, rõ địa vị trách nhiệm của mình trong xã hội?”[Chung Thị Vân- Đàn bà mới ngày 24/8/I936]… Họ cũng  từng phải vượt lên dư luận xã hội và tự bảo vệ mình trước sự chỉ trích của xã hội và báo giới vì những thay đổi từ trong cách ăn mặc, nếp sống,[58] tới những bỡ ngỡ, lúng túng khi lần đầu tiên tham gia vào các hoạt động chính trị…Họ lên tiếng [59]: “… lợi dụng sự thấp kém về trình độ của chúng tôi để bầy trò mua vui độc giả là việc chúng tôi hết sức phản đối…”[Tân xã hội-10-10/1936]. ..
         Tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, hai người phụ nữ được vinh dự là người kéo lá quốc kỳ trong ngày Lễ độc lập khi chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước toàn thế giới về sự Khai sinh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một thể chế chính trị đề cao quyền con người đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"…
         Cách mạng tháng Tám thành công, lần đầu tiên phụ nữ Việt Nam được thực hiện quyền bình đẳng và quyền công dân của mình, tham gia bầu cử và ứng cử vào Quốc hội- cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Trong Quốc hội đầu tiên này 10 người phụ nữ đã trở thành đại biểu quốc hội, đại diện cho phụ nữ Việt Nam tham gia  bỏ phiếu thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của một nước Việt Nam mới công nhận: “Sức mạnh của đất nước nằm trong tay người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, giới tính, giàu nghèo, đẳng cấp, tôn giáo... Phụ nữ bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực”.(điều 9)-Phải chăng đây chính là mốc son đánh đấu thành quả bước đầu của phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ trí thức nói riêng trên con đường hội nhập với nhân loại tiến bộ trên thế giới đấu tranh vì quyền con người và quyền phụ nữ?

Tài liệu tham khảo

[1]    Đặng Thị Vân Chi (2012)  Phụ nữ Hà Nội: truyền thống và cách tân trong những năm nửa đầu thể kỷ XX,  trong phát triển bền vững thủ đô Hà Nội, NXB Hà Nội.(tr 311-328 )
[2] Trần Thị Phương Hoa (20I2), Giáo dục và phong trào phụ nữ ở Bắc kỳ trước năm I945  .Nữ quyền không có gương mặt phụ nữ” http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4024-giao-duc-va-phong-trao-phu-nu-o-bac-ky-truoc-1945-nu-quyen-khong-co-guong-mat-phu-nu.htm
[ 3]  Đặng Thị Vân Chi, (2011) Vai trò của nữ nhà báo với việc bảo vệ di sản văn hóa, T/c Khoa học Đại học quốc gia, Hà Nội
 [ 4]. Đặng Thị Vân Chi (2011) Gia huấn Nữ huấn với việc giáo dục phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua một số tác phẩm về giáo dục gia đình của Đặng Xuân Bảng trong Việt Nam học và Tiếng Việt: các hướng tiếp cận, NXB KHXH (tr31-43)
[ 5] Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới (2011), NXB Thế giới, H
[ 6].  Đặng Thị Vân Chi (2008) International woman moverment through Vietnamese press before August revolution in 1945, Sixth EUROVIET Conference, Hamburg University, Germany June 6-8,.
[7.]   Đặng Thị Vân Chi , (2008) Vấn đề phụ nữ trên báo chí Tiếng Việt trước năm 1945, NxbKHXH, 297 tr.
[8.] Micheline Lessard, (2007) "The Colony Writ Small: Vietnamese Women and Political Activism in Colonial Schools During the 1920s",Journal of the Canadian Historical Association / Revue de la Sociộtộ historique du Canada, vol. 18, n° 2,  p. 3-23.
[9] Nguyễn Vỹ (2006), Tuấn- Chàng trai n­ớc Việt, NXB Văn học.
[10]. Khuyết danh (2005), Gia huấn diễn ca, NXB Ph­ơng Đông
[11] Đào Duy Anh (2004) Nhớ nghĩ chiều hôm, Hồi kí NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh
[12]  Trần Hàn Giang (2004), “Về một số lý thuyết nữ quyền”. T/c KH về PN số 1(62), tr 11-19
[13]  Thy Hảo Trư­ơng Duy Hy (2003), Nữ sĩ Hùynh Thị Bảo Hoà.-Ng­ời phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên. NXB Văn học..
[14]  Nguyễn Kim Anh (2003), “Về một th­ quán của nữ l­u Nam Bộ đầu thế kỷ XX”, T/c KHXH số 2 (60), tr.88-94.
[15]    Đặng Thị Vân Chi (2001) Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Trong Việt Nam học- Tập IV. Kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15-17/7/1998 (nhiều tỏc giả). Nxb Thế giới, H., (tr37-46).
[16]    Nguyễn Văn Khoan (CB), (2001), Việt Minh thành Hoàng Diệu, NXB TP Hồ chí Minh
 [17]  Nguyễn Văn Trấn, (2001), (Hồi kí) Chúng tôi làm báo. NXB Văn nghệ TP HCM.
[18]  Đạm Ph­ương nữ sử (1999), NXB Văn học.
[19]                  Hoài Thanh- Hoài Chân (1997), Thi nhân Việt Nam 1932-1941,  NXB Văn học,  H..
[20]                  Đinh Gia Trinh (1997), Hoài vọng của lí trí,  H.
[21] Đại học Quốc gia Hà Nội-Tr­ường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1997), Tân th­ư và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX , NXB CTQG,H.
[22]. Lý Lạc Nghị, (1997) Tìm về cội nguồn chữ Hán: gồm nhiều từ đó gia nhập vào kho tiếng Việt, Jim Waters biên soạn, Nguyễn Văn Đổng dịch (Hà Nội: Thế Giới), 585.
[23]                  Thanh Việt Thanh-Thiên Mộc Lan (1988), Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, NXB Văn Nghệ HCM
[24] Nguyễn Thị Lựu (1985), Tình yêu và ánh lửa, (hồi kí). NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
[25] Nguyễn Thị Thập (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, T1.PN.
[26].       Mai Huỳnh Hoa (1983), “Đôi nét về bà Sư­ơng Nguyệt Anh- chủ bút tờ tuần báo Nữ giới chung”, T/c Văn học số3  tr.134-144
 [27]     Nguyễn Anh,( 1967) “Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược  đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất”, T/c NCLS, số 98, (5)
 [29]                 Nguyễn Thị Kim Anh (1938), Vấn đề phụ nữ, NXB Thân Dân, Chợ Lớn
[30] Đỗ Thị Bích Liên (1938), Vấn đề bình đẳng và tự do, Việt Dân, Phủ Lý
[31] Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc (1932), Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam[
[32] Hội ái hữu cựu nữ sinh Gia Long, http://www.gialong.org/history.html
[33]                  Susan Ware. Modern American Women. A documenttary history. The Dorsey Press. Chicago, Illinois 60604.
Các tờ báo xuất bản đầu thế kỷ XX: Nông cổ mín đầm, Đăng cổ tùng báo, Trung Bắc Tân Văn, Nữ giới chung, Hữu Thanh, Hoàn cầu tân văn, Công Luận, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ tân tiến, Phụ nữ thời đàm, Trung lập,  Đàn bà mới, Đàn bà, Tân thời, Tân xã hội…. và một số báo khác.







 [1] Hoài Thanh-Hoài Chân (1977), Thi nhân Việt Nam 1932- 194 1, NXB văn học, H, tr 16
[2] Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng lãnh đạo được coi là đỉnh cao của phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp cuối thế kỷ XIX.
[3]   Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất được thực hiện từ năm 1897-1914, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ thực hiện từ năm 1918-1930.
[4]  Trong khoảng 20 năm cuối thế kỷ 19, các đô thị mới hình thành mang dáng dấp của một đô thị hiện đạị. Pháp phân cấp thành các đô thị loại I ( Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng…),  và đô  thị loại 2, loại 3. Những đô thị cũ cũng nhanh chóng chuyển mình như tại Hà Nôi một loạt các công trình kiến trúc mới/ các công sở như Tòa thống sứ, Tòa Thị chính, Kho bạc, ngân hàng Đông Dương, khách sạn Métropol… và các tòa nhà Biệt thự của khu phố Pháp, nhà máy điện (1902), nhà máy nước yên Phụ (1904), công ty tầu điện (1912), nhà máy xe lửa, xưởng sửa chữa ô tô… được xây dựng
       Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930, ở Việt Nam có khoảng 535 công ty vô danh lớn của tư bản nước ngoài đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn là 4 tỷ Frances, trong đó có khoang5 205 công ty của tư bản Pháp. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là: công nghiệp phục vụ lợi ích công cộng, công nghiệp nhẹ phục vụ sinh hoạt ( nhà máy sợi, bông (1890), nhà máy rượu (1901), nhà máy Diêm (1904),  nhà máy Bia (1909), nhà máy Da (1912), nhà máy thuốc lá (1917)… công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng:nhà máy gạch , ngói (1909), nhà máy in … . Bên cạnh 30.000 km đường bộ laf2.400km đường sắt và 14.000km đường dây điện thoại…
[5] Đinh Gia Trinh(1997)Hoài vọng của lý trí,H tr13
[6]Hoài Thanh-Hoài Chân (1977), Thi nhân Việt Nam 1932- 194 1, NXB văn học, H, tr  17
[7] Từ “trí thức” trong hầu hết các cuốn từ điển của ngôn ngữ  Châu Âu  đều xuất phát từ chữ "intellectualis " (tiếng La Tinh) có nguồn gốc từ chữ "intellectus" nghĩa là sự hiểu biết. Chữ "intellectualis" cũng thường được hiểu có ý nghĩa tương đương với chữ "litterati" nghĩa là người có năng lực trí tuệ và học vấn cao.
[8] Trong chữ Hán thì chữ "trí" gồm chữ "nhật" và chữ “tri” (chữ nhật = mặt trời, ban ngày[8] chỉ nghĩa, chữ "tri" = biết, chỉ cả nghĩa và âm đọc. Trong chữ "tri" có chữ "khẩu" = cái miệng). Chữ "thức" (biết) lại có chữ "ngôn" (lời nói).Theo Lý Lạc Nghị, (1997) Tìm về cội nguồn chữ Hán: gồm nhiều từ đó gia nhập vào kho tiếng Việt, Jim Waters biên soạn, Nguyễn Văn Đổng dịch (Hà Nội: Thế Giới), 585.
[9] Theo GS.Ye  Qizheng (Diệp Khải Chính ở Khoa xã hội Trường Đại học Đài Loan) Ở Tây Âu tử “trí thức” (Intellectual) xuất hiện lần đầu tiên trong bức thư ngỏ có tựa đề “Tôi lên án” gửi Tổng thống Pháp của Zola ngày 13/01/1898 nhằm kêu gọi xét xử lại Vụ án Dreyfus được đăng trên tờ “Tia sáng”, (chủ bút là Clémenceau) như chữ ký ở  bên dưới bức thư “Tuyên ngôn của những người trí thức” (Manifeste des intellectuels). Từ đó, “intellectuels” được dùng để chỉ một nhóm nhà văn, giáo viên, nhà báo chủ trương hoặc đồng tình với việc sửa sai cho Dreyfus (…).Từ intelligentsia (giới trí thức) có nguồn gốc từ nước Nga, do nhà văn Nga Boborykin đề xuất vào năm 1860 dùng để chỉ nhóm nhân vật đã đưa triết học Đức vào nước Nga. Họ là những người có tư tưởng và lối sống phương Tây hoặc là tỏ ra bất mãn với tình trạng nước Nga đương thời, họ truyền bá chủ nghĩa không tưởng, học theo lối sống của xã hội thượng lưu Phương Tây, hoặc bắt tay vào cải cách xã hội thực tế. Cũng có ý kiến cho rằng intelligentsia có nguồn gốc từ Ba Lan (intelektualny), được nhà triết học Ba Lan Karol Libelt (1807-1875) sử dụng để chỉ một tầng lớp đặc biệt trong xã hội Ba Lan vốn thuộc giới quí tộc có truyền thống văn hóa, đặc điểm tâm lí, lối sống riêng biệt… Tinh thần của giới quí tộc này đã được những người học đại học ở Ba Lan kế thừa và phát huy khi họ dũng cảm phê phán xã hội, tự cho mình phải có trách nhiệm đối với quốc gia.  Họ trở thành lực lượng chủ yếu trong công cuộc cứu nước và chống lại giai cấp thống trị khi Ba Lan bị các cường quốc chia cắt.[  http://zhidao.baidu.com/question/35269408]
[10] Đặng Thị Vân Chi ( 2011),Gia huấn, nữ huấn và giáo dục phụ nữ dưới thời phong kiến qua một số tấc phẩm giáo dục gia đình của Đặng Xuân Bảng, Việt Nam học và Tiếng Việt- Các hướng tiếp cận, NXB Khoa học xã hội,
[11] Trịnh Văn Thảo (1995) L’ecole Francaise en Indochine, Paris, Karthala ( bản dịch tư liệu Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH &NV, ĐHQG Hà Nội , tr95.
[12], Theo Paullus và Bouninais  trong La France en Indochine và Paul Bonnetain trong L’extrème Orient ( dẫn theo Nguyễn Anh, (1967), sdd, tr42-44
[13] Trường nữ học, trường Brieux, khai giảng ngày 6.1.1908 tại Hà Nội có  178 học sinh [Đàn bà mới số đặc biệt năm 1942],  năm học 1922-1923 số học sinh học bậc sơ học là 129 người ( Trịnh Văn Thảo (1995)
[14] Trường Nữ học Đồng Khánh ở Huế thành lập năm 1917. Năm học 1922-1923 số học sinh sơ học là 358 học sinh, học sinh bậc trung học là 35 người. Năm 1930, số học sinh nữ ở Trung Kỳ là 1986 người, trong đó có 47 người học lớp Sư phạm và 494 người học lớp Cao đẳng tiểu học.
[15] Trường Áo Tím khai giảng ngày 19/9/1915. Năm học đầu  tiên có 42 nữ sinh chủ yếu ở khu vực thành phố, cũng có một số nữ sinh đến từ các tỉnh lân cận. Trường có các lớp từ Đồng ấu đến lớp Cao đẳng. Tốt nghiệp, học sinh được cấp bằng sơ học. Đến tháng 9/1922, trường có  226 học sinh sơ học và có thêm Ban trung học Nữ học đường với 24 học sinh.  
[16] Ngày 21/12/1917 toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành Học Chánh Tổng Qui ở Đông Dương (Règlement Général de l'Instruction Publique en Indochine) nhằm mục đích thực hiện một cách qui mô chính sách của Pháp ở Đông Dương.
[17] Các số liệu được tổng hợp từ nhiều nguồn: Trịnh Văn Thảo(1995) , Trần Thị Phương Hoa ( 2012), báo Nam Phong và báo Đàn bà số đặc biệt năm I942.
[18] Trịnh Văn Thảo (1995), sdd, tr152
[19] Nguyễn Văn Ký, (1995), La societe’ vietnamienne face a` la modernite. le Tonkin de la fin du XIXe sieccle a` la  seconde guerre mondiale, Paris, L Harmattan, ell, Recherches asatiques, tr138
[20] Hội ái hữu cựu nữ sinh Gia Long, http://www.gialong.org/history.html, tr1-2
[21] Như cô Henriette Bùi, tốt nghiệp đại học y khoa Pari (năm 1934), bà Nguyễn Thị Sương (năm 1940), cô Lê Thị Hoàng tốt nghiệp cao đẳng y khoa Hà Nội (năm 1937); cô Dương Thị Liễu (năm 1940), cô Lý Thị Nguyệt tốt nghiệp Cao đẳng bào chế Hà Nội, bà Phan Thị Liệu tốt nghiệp Cao đẳng Canh nông Hà Nội; cô Phạm Thị Mỹ rốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội (năm 1928), cô Nguyễn Thị Châu tốt nghiệp cử nhân Văn khoa ở Đại học Pari (năm 1936); bà Bùi Thị Cầm tốt nghiệp Đại học Luật khoa Pari và bà Nguyễn Minh Nguyệt tốt nghiệp trường Cao đẳng Luật khoa Hà Nội…[Đàn bà mới – số dặc biệt năm 1942]
[22] Để nhận được bằng Tiến sĩ này cô đã phải viết hai bản luận án “Proprfetes photo voltaiques des substances organiques” và “Structure des molecules et spectres d’absorption”[ Đàn bà mới-17/6/1935]
[23] Bên cạnh các cuốn sách của Montesquieur, Voltaire, Rousseau, Khang hữu Vi, Lương Khải Siêu… sách của J.Stuart Mill Bàn về tự do (On Liberty), Sự khuất phục của phụ nữ (The Shehjection women) cũng đã được các trí thức phong kiến Việt Nam biết đến.
[24]   Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Xuân Khuê con gái thứ năm của nhà thơ, nhà yêu nước Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu. Thuở con gái bà lấy hiệu là Nguyệt Anh, khi goá chồng, thêm chữ Sương vào là Sương Nguyệt Anh. Là con gái của Nguyễn Đình Chiểu bà thừa hưởng được của cha cả vốn Hán học lẫn tinh thần yêu nước của cụ Đồ Chiểu.
[25]  Báo Nữ giới chung xuất bản tại  Sài Gòn số đầu tiên ra ngày 1/2/1918 và số cuối cùng ra ngày 19.7.1918, tất cả được 22 số chủ báo là Henri Blanquier, tổng lý là Trần Văn Chim, chủ bút là Sương Nguyệt Anh
  [26] Đạm Phương Nữ sử tên thật là Công Tôn nữ Đồng Canh, tự Quý Lương, sinh năm Tân Tỵ (1881) tại phủ Tôn Nhơn, kinh đô Huế. Thân phụ bà là Nguyễn Miền Triện, hoàng tử thứ 66 của vua Minh Mạng, thụ tước Hoàng Hoá Quận Vương. Thuộc dòng dõi Hoàng tộc, nên mặc dù là phụ nữ, từ thời niên thiếu Công Tôn Nữ Đồng Canh đã được thụ hưởng nền giáo dục truyền thống nghiêm túc của hoàng tộc, bà giỏi cả Hán văn, Pháp văn, quốc ngữ, cầm, kỳ, thi, hoạ và giỏi nữ công gia chánh.  Nhờ thông thạo Hán văn, Pháp văn, Đạm Phương Nữ Sử sớm có điều kiện tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái của các nhà cách mạng dân chủ tư sản Pháp, Trung Quốc như J.J.Rutxô, X.Ximông, Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên…
[27] Tuyển tập Đạm Phương nữ sử (1999), NXB Văn học, H,
[28] Tuyển tập Đạm Phương nữ sử (1999), NXB Văn học, H, tr 10-11
[29] Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896-1982) là người làng Đa Phước, huyện Hòa Vang (Đà Nẵng). Hồi nhỏ bà có tên là Huỳnh Thị Thái. Cha bà là một võ quan dưới triều Nguyễn và đã từng tham gia phong trào Cần Vương ở Quảng Nam. Bà là người thông minh, ham học hỏi lại được giáo dục kỹ lưỡng từ nhỏ, được học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ, chữ Pháp và được xem là người phụ nữ tiến bộ nhất địa phương lúc bấy giờ.
[30] Kim tú cầu được đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 1460 (ngày 15/7/1922) đến 1567 (ngày 22/10/1923), và được Trung Bắc tân văn đăng lại từ ngày 25/5/1923 đến 21/7/1923.  Đây là câu chuyện kể về nàng Tú Cầu xinh đẹp tài hoa, nhưng vì cha mẹ quá đề cao tiêu chuẩn môn đăng hộ đối, tin vào bói toán đã buộc Tú Cầu  phải kết hôn với người mình không yêu thương và cuộc đời của cô trải qua biết bao lận đận vì cuộc hôn nhân sắp đặt này
[31] Chung kỳ vinh được đăng trên Lục tỉnh tân văn những năm 1923-1924, nhưng chưa được xuất bản thành sách. Nhân vật nữ Ngọc Yến trong Chung Kỳ Vinh cũng giống như Ngọc Lan trong Kim Tú cầu đều có hoàn cảnh éo le không lấy được người mình yêu do quan niệm môn đăng hộ đối của cha mẹ, và cũng đều phải rời bỏ ngôi nhà của mình để bước vào cuộc phiêu lưu đầy bất trắc
[32] Tác phẩm Hồng phấn tương tri của Đạm Phương nữ sử được công bố từng phần trên Lục tỉnh tân văn từ năm 1922, đến năm 1929 được Nữ lưu thư quán Gò Công của bà Phan Thị Bạch Vân xuất bản với số lượng in 10.000 bản. Trong tác phẩm Hồng phấn tương tri, Đạm Phương nữ sử đã xây dựng hình mẫu thanh niên thế hệ mới qua hai nhân vật Quế Anh và Nam Chân cùng nhau đấu tranh cho một xã hội mới văn minh và tiến bộ.
[33] Phụ nữ tân văn (1929-1935) ở Sài Gòn,
[34]Đặng Thị Vân Chi (2006) Dòng báo phụ nữ ở Việt Nam trước năm I945, T/C NCLS số 6/2006. Kể từ khi Phụ nữ tân văn (1929-1935), ra đời ở Sài Gòn, từ năm I929 đến năm I945, có hơn I0 tờ nữ báo lần lượt được xuất bản như: Phụ nữ thời đàm- PNTĐ (1930-1934) ở Hà Nội,   Phụ nữ tân tiến –PNTT (1932-1934) ở Huế,   Đàn bà mới- ĐBM (1934-1936) ở Sài Gòn,  Nữ lưu -NL (1936-1937) ở Sài Gòn, Việt nữ -VN (1937) ở Hà Nội, Phụ nữ -PN (1938-1939) ở Hà Nội,  Nữ công tạp chí-NCTC (1936-1938) ở Sài Gòn,  Nữ giới - NG (1938-1939) ở Sài Gòn, Đàn bà - ĐB (1939-1945), Bạn Gái -BG (1945),  Việt nữ -VN (1945) ở Hà Nội….Trong  thời kì đầu thập niên 1930, cả ba kỳ đều có báo dành riêng cho phụ nữ.
[35] Phong trào phụ nữ Mỹ, Anh, Đức, Ý, Thổ Nhĩ kì, Iran, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaixia [TB-15-16/1/1931], …
[36] Hội nghị Phụ nữ châu Á họp tại La Hore Ấn Độ từ ngày 19-25/1/1931[ Phụ nữ tân văn ngày 4/6/1931]; hai cuộc hội nghị phụ nữ ở Pháp với nội dung vận động giải phóng phụ nữ, đặc biệt cuộc Hội nghị phụ nữ toàn thế giới tranh đấu chống nạn phát xit và chiến tranh, cuộc thảo luận tại Thượng nghị viện Pháp về việc thông qua quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ, [Hoàn cầu tân văn ngày 20/11/1934].
[37] Chị em ta nên học những nghề nghiệp để mưu tự lập lấy thân” [PNTV-4/7/1929] “Nghĩa vụ chị em mình phải lo cho có nghề nghiệp” [PNTV-20/3/1930] “Mở cửa các sở cho đàn bà vô”[PNTV-27/8/1931], “Chức nghiệp và địa vị phụ nữ trong xã hội”[PNTT-1/10/1932], “ Phụ nữ chức nghiệp”[ĐB- 14/10/1933]
[38]Phụ nữ chủ nghĩa hay nữ quyền là gì” [PNTV-7/10/1933], “Đàn bà tranh đấu với ai” [PNTV-18/11/1934], “Phụ nữ chức nghiệp có đem phụ nữ đến tột đường giải phóng chăng” [PNTV-6/9/1934], “Tiếng Oanh kêu đàn” [PNTV-6/12/1934]...Đến năm 1936 Đàn bà mới đòi “cho phụ nữ được quyền bỏ thăm”.
[39] Nguyễn Thị Khang, một nữ trí thức đã từng du học ở Pháp, là cộng tác viên thường xuyên viết bài trên Phụ nữ Tân văn là vợ của Cao Văn Chánh
[40]  Nguyễn Thị Chính (còn được biết dưới tên Nguyễn Thị Ảnh) là con gái một gia đình Bá hộ giầu có ở An Hòa ( Mỹ Tho), cô đã từng du học ở Pháp những năm trước 1930 và đã có bằng tú tài. Trong thời gian du học cô gặp gỡ và kết hôn với nhà cách mạng Tạ Thu Thâu và vì thế nên đã bị gia đình từ bỏ. Ngay từ khi còn ở Pháp cô đã luôn sát cánh cũng Tạ Thu Thâu trong những hoạt động yêu nước.
[41] Cuộc thảo luận này xuất phát từ những cuộc tranh luận trên báo chí về vấn đề phụ nữ khi Nguyễn Thị Chính đã viết bài “Phê bình cuốn “Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam” (Trần Thiện Tỵ và Bùi T[41]hế Phúc-1932). Từ những ý kiến trong bài viết này, và những ý kiến phản đối bài phát biểu của bà Phan Văn Gia tại Hội chợ phụ nữ mà Phan Khôi đã viết bài Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan” trên Phụ nữ tân văn. Phan Khôi cho rằng có thể phân ra làm hai phái: Ôn hoà và cấp tiến. Theo Phan Khôi “chẳng có ai là ôn hoà hết, chẳng có ai là thủ cựu, cũng chẳng có ai là cấp tiến hết” [PNTV-7/7/1932] mà khác nhau chỉ ở chỗ giải quyết vấn đề như thế nào? Nguyễn Thị Chính cho rằng các cuộc tìm hiểu phải đi sâu vào gốc rễ của vấn đề phụ nữ trong sự tiến hoá chung của xã hội và sự thiết lập xã hội trên cơ sở kinh tế, nhưng theo bà hai cơ sở này chưa đủ mà “cần phải đổi nhân sinh quan để giải quyết vấn đề phụ nữ” [PNTV- 4/8/1932]. Cuối cùng Phan Khôi đồng ý với ý kiến này của bà.
[42] Shawn Frederick McHale., (1995 ) Printing, power, and the transformation of Vietnamese cultture, 1920-1945, dissertation, Cornell Universite tr188.       
[43]  Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khoan, Nguyễn Thi Kim Anh chính là  bút danh của Nguyễn Thị Minh Khai- một nữ trí thức cách mạng nổi bật trong thời kỳ vận động cách mạng giải phóng dân tộc của nhân Việt Nam trước năm 1945
[44] Đỗ Thị Bích Liên (1938), Vấn đề bình đẳng và  tự do, Quyển một, Vấn đề bình đẳng, Nhà sách Việt dân, tr 3
[45] Đào Duy Anh , Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB TP Hồ Chí Minh, phần phụ lục, hồi ký của Trần Thị Như Mân, tr507
[46] Những nghề được dạy tại Hội nữ công:Dạy cách may Ta và cách may Tây, thêu đồ Ta và thêu đồ Tây, Cách dệt vải và tơ lụa Cách nuôi tằm và ươm tơ, cách nấu đồ ăn và các món ăn Ta, Tây, Tà, cách làm các thứ bánh Ta, Tây, Tà, cách làm các thứ mứt kẹo và tỉa hoa Làm Dưa và các thứ mắm tương cà, cách giặt là quần áo, dạy đại cương về giáo dục phụ nữ, cách chăm sóc trẻ em, vệ sinh thai sản, cách tính toán, làm sổ sách quản lý thu chi trong gia đình và trong kinh doanh
[47] Phan Thị Bạch Vân tên thật là Phan Thị Mai, sinh năm 1903, quê ở làng Bình Trước, tổng Phước Vĩnh Thượng, tỉnh Biên Hòa (nay là phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa). Bà là con thứ năm trong gia đình quan lại nhưng chọn lối sống thanh bạch. Từ năm17 tuổi bà đã bắt đầu sự nghiệp viết báo, viết văn. Những bài báo đầu tay của bà được đăng trên Đông Pháp thời báo từ năm 1928. Cũng từ 1928, bà theo chồng là ông Võ Đình Dần về Gò Công sinh sống và sáng lập ra Nữ lưu thơ quán,
[48] giới thiệu Học thuyết lược khảo (dịch) của Lương Khải Siêu, thuyết tiến hóa của Darwin, học thuyết của Montesquieu), Rousseau,  Lịch sử Nam tiến của dân tộc ta, Mỹ quốc cách mạng sử…,  Gương nữ kiệt, Lịch sử Ghandi…,  Hồng phấn tương tri, sách dạy đạo vợ chồng,  nuôi nấng con cái như Sản dục giám  “, Tân nữ học sinh, Phụ nữ tân giáo khoa, Nữ công thường dụng
[49] Là trợ bút của Đông Pháp thời báo, bà viết về rất nhiều đề tài. Bà kêu gọi “Phụ nữ Việt Nam ta thử lập vài cái học bổng”, (số 650 - 1927), bà muốn “Mưu trừ tuyệt nghề xe kéo” (số 704 - 1928) và làm cả thơ trào phúng Đồng bạc Tây và đồng bạc Pháp, (số 642 - 1927)...
[50] .Báo Trung Lập ngày 4/1/1932 đưa tin: Cuộc đấu xảo có 12 gian hàng trong đó có gian hàng của Hội nữ công Huế, 1 gian của các nữ đạo sĩ ở Sư nữ Diệu viên Huế, đặc biệt có một gian trưng bày các tác phẩm của nữ họa sĩ Mộng Hoa.
[51] Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tr503
[52] Phùng Thị Vy, Nguyn Thị Tú, và Lê Thị Chất
[53] Lê Thị Gấm, một phụ nữ trẻ bị bắt năm 1930 cũng khai rằng, cô bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị khi đang học tại trường học. Một người bạn của cô là Nguyên Thị Vân tham gia  và đã tham gia vụ ám sát một kẻ bị coi là Việt gian.  Lê Thị Mai một nữ sinh khác cũng khai rằng cô đã bị chính trị hóa trong khi là một sinh viên tại trường Nữ học tại Quảng Ngãi, nơi cô đã được tiếp cận với báo chí cách mạng Pháp như  tờ Tiếng nói Nhân dân (La Voix du Peuple). Trong năm 1930 hai sinh viên sư phạm tại trường Nữ Cao đẳng tiểu học Sài Gòn, Đặng Thị Lạng  Trần Thị Sanh, đã bị đuổi vì đã tham gia vào các hoạt động lật đổ(Micheline Lessard, (2007)
[54] Nguyễn Văn Khoan (CB), (2001), Việt Minh thành Hoàng Diệu, NXB TP Hồ chí Minh, tr430
[55] 19/8 - cuộc khởi nghĩa của những người tay không” Đoan Trang thực hiện (Tuan VietNam -18/08/2009
[56]“19/8 - cuộc khởi nghĩa của những người tay không” Đoan Trang thực hiện (Tuan VietNam -18/08/2009
[57] Nguyễn Thị Thập (CB),( 1981)Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, T1, NXB Phụ nữ, tr118-120
[58] Chúng em đuổi cái đuôi gà để rẽ lệch tóc, thay bộ răng ngà trắng muốt vào chỗ bộ răng đen ngòm, mượn cây son môi để làm việc của miếng trầu toe toét kia… chúng em ưa chiếc quần lụa bạch êm mát hơn cái quần sồi dày cồm cộp, trên đó người ta không phân biệt được những giống bẩn thỉu gì, nhưng các cụ bảo sạch vì nó đen…” ( Báo Phong hóa).
[59] Đây là bài trả lời của Tâm Kính Trần Thị Trác trên báo Tân xã hội sau  sự việc báo Ngày Nay có bài viết mỉa mai với các biếm họa về cuộc họp  ngày 24/9/1936 của 40 phụ nữ trí thức ở trụ sở hội Trí Tri phố hàng Quạt tại Hà Nội do Đoàn Thị Tâm Đan làm chủ tịch và các chị Tâm Kính (tức Trần Thị Trác) và chị Đinh Thị Phượng làm thư ký bàn về việc thảo tập Dân nguyện,

* BÀI ĐÃ ĐĂNG TRONG VIỆT NAM HỌC- KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ 4- VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG., T1., NXB KHOA HỌC XÃ HỘI, 2013 TỪ TRANG 217-241

PHONG TRÀO TẨY CHAY HOA KIỀU Ở VIỆT NAM NĂM 1919 (qua nguồn tư liệu báo chí đầu thế kỷ 20)*

                                                                                                          Đặng Thị Vân Chi * Đặt vấn đề T...