Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT VÀ VẤN ĐỀ MÃI DÂM TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI THUỘC ĐỊA


   Đặng Thị Vân Chi
(Bài đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 1 năm 2008 từ tr 34 đến tr 43)
         Vấn đề mãi dâm là một vấn đề được đề cập khá nhiều trên báo chí trong thời kì từ năm 1930. Có thể nói đây là vấn đề xã hội liên quan tới nhiều khía cạnh của cuộc sống phụ nữ: vấn đề nhân phẩm, vấn đề việc làm, vấn đề đạo đức, vấn đề sức khoẻ... Theo sự khảo sát của chúng tôi, vấn đề mãi dâm được báo chí đề cập đến lần đầu tiên là trên báo Phụ nữ tân văn  ngày 12.12.1929. Lúc này, báo chí mới đề cập một cách dè dặt “Có nên trừ bỏ cái nghề mãi dâm không” xuất phát từ nhận thức đây là một cái nghề có thể mang lại bệnh tật, dẫn đến chết yểu và nhục nhã. Sự xuất hiện ngày càng nhiều nhà chứa và các cô gái sống bằng nghề mãi dâm trong những năm sau này đã khiến dư luận xã hội  ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề này.
Trong những năm 1930 báo chí bắt đầu có những bài viết nghiêm túc trình bày thực trạng đời sống của những người phụ nữ phải bán thân nuôi miệng, tìm hiểu nguyên nhân của nạn mãi dâm và cố gắng đề xuất  các biện pháp giải quyết.
1. Tình trạng mãi dâm trong xã hội và thân phận của những người phụ nữ làm nghề mãi dâm.
Vào những năm 1930, vấn đề mãi dâm ở Việt Nam đã trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Các báo đã mô tả tình trạng “lúc nhúc xóm bình khang, đầy rẫy phường bán phấn” trong các đô thị Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. “Nếu đi qua các ngõ Sầm Công ở Hà Nội, phố Hạ lý Hải Phòng, phố Bến Củi Nam Định... ta sẽ thấy một cảnh tượng đau lòng, một sự mãi dâm đê tiện hơn hết trong sự mãi dâm, vì tôi chắc không có nước nào mà nghề mãi dâm lại đê tiện quá hơn nghề mãi dâm ở nước ta: Họ ra tận đường phố lôi kéo khách hàng, họ nói những câu, hát những giọng khiêu dâm tục tằn...” [CL-7.3.1932].
Dưới chế độ thuộc địa, chính quyền thực dân duy trì chế độ mãi dâm để thu thuế. Vì vậy trong xã hội nảy sinh hai loại gái mại dâm. Một loại có giấy phép hành nghề và phải nộp thuế cho chính quyền thuộc địa, một loại hành nghề tự do mà báo chí thường gọi là loại “gái không có giấy”, “gái đi ăn mảnh”, “gái lậu” (Lậu thuế). Hầu hết gái mãi dâm ở Việt Nam thuộc loại không có giấy phép và tự kiếm khách. Giải thích vấn đề này, một số tác giả cho rằng do quan niệm đạo đức truyền thống mà cả người mua dâm lẫn người bán dâm thường không muốn lộ mặt, công khai. Đối với người mua dâm, về tâm lý họ cảm thấy xấu hổ khi vào các nhà chứa hợp pháp.
 Ở Sài Gòn có khoảng 400 gái mãi dâm "đóng thuế" thì có tới hàng ngàn gái mãi dâm "lậu thuế". Khách hàng của những “gái lậu” này là những người nghèo nên nơi "hành nghề" thường là những “xó tối, ngõ hẻm”, “vườn rậm đồng không” chẳng có vật gì che đỡ với “thứ gió sương lạnh buốt”, đầy uế khí và rất dễ nhiễm bệnh. Do đó, tình trạng mắc bệnh hoa liễu trong gái mãi dâm rất cao. Theo điều tra của “Uỷ ban xét các vấn đề mại dâm” thì năm 1933 ở Sài Gòn, một bệnh viện chuyên chữa trị các bệnh hoa liễu đã phải chữa trị cho hơn 20.000 người [ĐBM-16.2.1935]. Một bệnh viện chuyên chữa bệnh lậu “một ngày không dưới 30 đàn ông đến chữa bệnh, đàn bà là 150 người” (chỉ là chữa bệnh lậu, chưa kể các bệnh khác). Ở bệnh viện Bạch Mai thì cứ 100 người làm nghề mãi dâm, thì có đến 70 người mắc bệnh [PNTV-16.6.1933].  Còn ở Hà Nội cũng có khoảng 5000 gái mãi dâm mà trong đó tới 99% mắc bệnh hoa liễu [VB-3.3. 1937]. Tình trạng này còn biểu hiện ở chỗ trên các báo nhan nhản những quảng cáo thuốc chữa bệnh lậu. Và mãi dâm là một vấn đề bức xúc của toàn xã hội.
Tình cảnh của những người làm nghề mãi dâm hết sức đau lòng. Có người vì nhà nghèo phải đi ở từ nhỏ, lớn lên bị chủ ép phải bán mình; có người phải bán thân vì giao kèo vay nợ... Với những cô gái phải sống trong các nhà chứa thì tất cả đều phải “sống dưới quyền mụ chủ một cách đê nhục, mất hết tự do, có khi bị đánh đập, chửi mắng là thường’’[ĐP- 20.12.1936]. Các báo cũng viết về “Một hạng phụ nữ phải làm hai nghề do đồng lương quá thấp không đủ sống. Đó là những người phụ nữ làm ở các nhà hàng giải khát, ăn uống, [ĐBM-20.5.1935].
 Nhiều tờ báo đã thực hiện các bài phóng sự Điều tra cái nạn mãi dâm” [ ĐBM-8.6.1936], “Vấn đề đĩ điếm ở xã hội ta” [PNTV-7.1.1932] “Bề trái Sài Gòn-Lạc bước vào xóm Bình Khang[CL-17-19.8.1932], Gái truỵ lạc [VB-3.7. 1937]... Qua các bài báo trên, cuộc đời của các cô gái phải làm nghề mãi dâm vô cùng nhục nhã. Hầu hết những cô gái hành nghề "lậu" không có giấy phép không dám đòi giá. Khách trả bao nhiêu biết vậy, nhiều khi bị quỵt tiền. Cô nào dám đòi hỏi thì không bị khách đánh đập dã man cũng bị “mắng chưởi tơi bời”... Những người phụ nữ làm nghề mãi dâm không những bị hành hạ về thể xác,  mà họ còn phải chịu nỗi khổ tâm về tinh thần. Bởi vì họ bị coi là nguyên nhân mọi tội lỗi của xã hội: từ việc các gia đình không hạnh phúc, các ông chồng bỏ bê vợ con... đến thanh niên quen sống dựa dẫm, không có lý tưởng nên sa vào vòng truỵ lạc... Các báo cho rằng xã hội đã “buộc muôn nghìn tội lỗi vào đám phụ nữ giang hồ, họ nguyền rủa rồi tìm ra bao lời xảo trá để bào chữa cho công việc xấu xa” mà họ đã làm. 
Trong những năm cuối thập niên 1930 và đầu những năm 1940 của thế kỷ XX, tại các đô thị một biến tướng khác của hình thức mãi dâm là “hát cô đầu” mà báo chí cho là đã trở thành “một cái ung nhọt”  của xã hội. Báo Trung Bắc chủ nhật năm 1942 dành cả hai số chuyên san khảo cứu về lịch sử “hát ả đào”, hiện trạng của các nhà hát cô đầu, thực trạng đời sống của các cô đầu trong các thành phố lớn và hậu quả của nó đối với xã hội, đặc biệt là “Nạn hoa liễu do các nhà cô đầu gây ra” [TBCN-27.9.1942]. Các bài báo trên TBCN cho biết ở vùng ngoại ô Hà Nội năm 1938 có tới 216 nhà hát cô đầu và gần 2000 cô đầu. Theo ước đoán của các tác giả thì cho đến năm 1942 số đó tăng gấp 20-30” thậm chí có thể lên tới “ 60 -70 lần”. Bài báo cũng giới thiệu công trình nghiên cứu của Henri Virgitti và bác sĩ B. Joyeux về tình trạng nhiễm bệnh hoa liễu ở Hà Nội. Hai tác giả này cho biết ít nhất ở Hà Nội vào những năm 1938 có khoảng 250 nhà hát cô đầu với khoảng 1100 người và số phụ nữ sống bằng nghề mãi dâm có từ 1500 tới 2000 người. Hầu hết trong số họ mắc bệnh hoa liễu mà chính phủ thực dân không thể kiểm soát được bệnh tật và sự lây lan của nó. Còn ở Vinh, một thị xã nhỏ cũng có tới 8 nhà hát cô đầu với khoảng hơn 300 cô đầu. Các cô đầu ở Vinh tiếp khách cả ngày, cả đêm mà hầu như không hề được kiểm tra, khám xét về tình trạng bệnh tật. Nhiều “nhà hát” bắt cả trẻ em vị thành niên (14, 15”) tiếp khách. Và hầu hết số cô đầu này đều mắc bệnh hoa liễu [TBCN-27.9.1942]. Dưới tiêu đề “Nói có sách, mách có chứng” báo Trung Bắc chủ nhật số chuyên san đã trích đăng một loạt các ý kiến của các tờ báo khác về thực trạng đời sống của các cô đầu, tình trạng tha hoá của các cô đầu về đạo đức như lừa lọc, ăn trộm, ăn cắp, gây gổ đánh chửi nhau... Nguyễn Doãn Vượng đã nhận xét về tác hại của việc đi hát cô đầu là “hầu hết những kẻ đi hát bây giờ đều là thanh niên... do đó sự kém sút về sức khoẻ, sự truỵ lạc về tinh thần, những bệnh hoa liễu cũng từ đó mà về thăm gia đình và vợ con những thanh niên đó; lại còn bao nhiêu kẻ trong cơn mê muội đớn hèn lỗi đạo vì đi hát, ăn trộm, ăn cắp vì mê hát và khuynh gia bại sản vì những cô đầu hát”... [TBCN-27.9.1942].



2.Nguyên nhân của vấn đề mãi dâm.
          Năm 1932, trước tình trạng nạn mãi dâm ngày càng phát triển, báo Công luận phê phán: xã hội chỉ có “lắm tiếng khinh rẻ, nhiều lời doạ nạt mà không thấy có một ông hoặc bà trí thức đạo đức nào truy nguyên từ nơi đâu xã hội tư tài lại có hạng người bán máu suốt đêm để đổi chác vật chất che thân, lấy thực phẩm nuôi miệng”. Mặc dù bài báo bị kiểm duyệt cắt bỏ nhiều đoạn nhưng cũng cho thấy quan điểm của tác giả về nguyên nhân của nạn mãi dâm trong xã hội tư hữu tài sản là vì: có hạng người giàu có “tiền sài không hết, đổ ra mua những cuộc hoa nguyệt thâu canh”, nhưng cũng có hạng người thì “thiếu ăn, mặc, làm mướn mệt nhọc suốt ngày mà không đủ nuôi miệng, con ma đói kêu gọi, nạn kinh tế áp bức mới xui nên làm việc nhỡ nhàng nhơ nhớp ấy.” Và “sở dĩ có hạng phụ nữ ra thân làm đĩ” bị “tiếng đời dị nghị chê bai...xã hội mỉa mai, miệt thị, nhà đạo đức luân lý gọi là thứ vô giáo dục, kém đạo đức làm rối loạn lễ giáo phong tục” đó, “không phải tội lỗi nơi họ” mà là “tội ác của xã hội” [CL-7.3.1932].
          Năm 1934, các báo Phụ nữ tân văn và báo  báo Việt dân đã làm cuộc phỏng vấn điều tra về vấn đề mãi dâm. Hầu hết những phụ nữ làm nghề mãi dâm đều nói rằng họ vì sinh kế khó khăn, vì bị lợi dụng, vì cuộc mưu sinh mà phải “cam bề tủi nhục, chịu mang lấy cái nghề xấu xa này” [HCTV-20.11.1934]. Phụ nữ tân văn phân tích: nạn mãi dâm là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, có người giầu, kẻ nghèo, nhất là trong thời kì kinh tế khủng hoảng, người lao động bị thất nghiệp, nạn mãi dâm càng phát triển. Trong xã hội có giai cấp đó, phụ nữ trở thành người bị lợi dụng để đem lại khoái lạc cho những kẻ có tiền của, “biết bao nhiêu là đàn bà, con gái lao công, thợ cu ly, bồi, may, đứng bán... chỉ vì mưu sanh, chỉ vì bị ép uổng, chỉ vì không được luật pháp ủng hộ mà phải làm đĩ”. Bài báo kết luận: xã hội có giai cấp thì có nạn mãi dâm, kinh tế khủng hoảng, nhiều người thất nghiệp thì mãi dâm càng phát triển. Cần phải vạch cho xã hội rõ nguyên nhân của nạn mãi dâm không phải là do luân lý suy đồi, phong tục bại hoại như các báo ca thán... Trong tình trạng kinh tế khủng hoảng ở Việt Nam, một số lớn phụ nữ lao động đang có nguy cơ trở thành gái mãi dâm [PNTV-16.8.1934].
         Báo Hoàn cầu tân văn đặt vấn đề “Mãi dâm có phải là một chức nghiệp không ?” với một hàm ý tố cáo chế độ thuộc địa ở Đông Dương. Bài báo cho rằng ở Việt Nam đó là một nghề bởi chính phủ thực dân cho hoạt động hợp pháp và thu thuế. Và phần đông phụ nữ cần đến “chức nghiệp” này là hạng người nghèo khổ. Dưới nhan đề “Vấn đề mãi dâm” báo Phụ nữ tân văn năm 1933 phân tích 4 nguyên nhân dẫn dến việc người phụ nữ phải làm nghề mãi dâm. Đó là: do áp chế (vì nhà nghèo phải đi ở, rồi bị cưỡng bức, hoặc cha mẹ nghèo phải vay nợ chủ đất, khi con gái đến tuổi phải bán đứng cho ông chủ nếu không sẽ bị đuổi nhà), do bị dụ dỗ (ham muốn ăn diện, không người chỉ bảo), do có hạng Tú Bà luôn đi lừa gạt con gái, do có hạng công tử nhà giầu mà “phần lớn đeo mặt nạ xa hoa, học vấn ở ngoài” [PNTV-22.6.1933]. Còn trên báo Đông Pháp ngày 20.12.1936, Văn Tâm giải thích: Có ý kiến cho rằng lúc đầu nó chỉ là một nghi lễ tôn giáo mà ở đó nữ giáo sĩ hiến thân cho thượng đế hay một nữ dâm thần giao hợp với một người đàn ông đi đường để tế lễ... Mặc dù có thể chưa hẳn đã đúng nhưng theo một vài vở kịch La Mã thì nghề này có từ cách đây hàng ngàn năm rồi. Cũng có ý kiến cho nghề mãi dâm có nguồn gốc từ thú vui thưởng thức âm nhạc của những gia đình giàu có ở Trung Quốc cổ đại. Những gia đình này nuôi ca nữ trong nhà làm hình thành nên tầng lớp kỹ nữ còn gọi là gia kỹ. Sau này các nguyên nhân này mất đi thì xuất hiện các nguyên nhân kinh tế. Đó là do nghèo túng, người phụ nữ phải bán thân nuôi miệng, ngoài ra còn có nguyên nhân vì dục tình, do lầm lỡ sa chân vào nghề này, cũng có người do lười biếng mà lại muốn ăn chơi xa xỉ. Trọng Quỳnh trên Đông Pháp năm 1940 đã phân tích quá trình “từ ngây thơ đến bán dâm” của một số cô gái quê nghèo vì quá đua đòi "theo mới", kém suy nghĩ, yếu linh hồn, đã bỏ nhà ra đi và cuối cùng sa vào con đường lầm lạc. Bài báo cho rằng con đường từ một cô gái quê đến một cô gái bán dâm là rất gần và vạch rõ sự cám dỗ của cuộc sống tiêu thụ nơi thành thị đã biến một cô gái quê trong trắng trở thành một cô gái làng chơi với bộ cánh tân thời choáng lộn, sánh vai cùng các công tử ra vào tiệm khiêu vũ, khách sạn, nhà hát...[ĐP-23.3.1940]. Cũng có ý kiến cho rằng vì chế độ hôn nhân ép gả, hôn nhân không có tình yêu nên thanh niên tìm đến các nhà chứa để thoả mãn nhu cầu sinh lý...
          Nhìn chung các ý kiến đều cho nạn mãi dâm phát triển là do nguyên nhân kinh tế, là sản phẩm của xã hội có giai cấp và của chế độ tư bản. Những nguyên nhân khác chỉ là phụ.

3. Báo chí với việc đề xuất giải pháp cho vấn đề mãi dâm
         Trước tình hình nạn mãi dâm phát triển, báo Đông Pháp cho biết “nước ta trong khoảng ít năm gần đây cũng có nhiều người nhất là những nhà ngôn luận có quan tâm đến vấn đề phụ nữ đều hô hào thảo luận để mong các nhà cầm quyền chính trị, các nhà săn sóc đến vấn đề xã hội kiếm cách bài trừ nạn mãi dâm ở xã hội ta” [ĐP-20.12.1936]
         Các tờ báo phụ nữ là những tờ báo quan tâm nhiều đến vấn đề này. Phụ nữ tân văn liên tiếp lên tiếng: "Có nên trừ bỏ cái nghề mãi dâm không” [PNTV-12.12. 1929], “Bao giờ xứ này bỏ đặng nhà điếm” [PNTV-24.4.1930], “Nạn mãi dâm” [PNTV-16.8. 1934].., Báo Phụ nữ thời đàm, Đàn bà mới tìm hiểu về “Số phận của hạng chị em lỡ bước” [PNTĐ-15.1.1931], “Ai đẩy chị em vào vòng truỵ lạc” [PNTĐ-11-12.5. 1931],  ,“Thân phận chị em  hồng lâu”... [PNTĐ-13.5.1931] “Một hạng chị em phải làm hai nghề [ĐBM-20.5.1935], “Cái nạn mãi dâm” [ĐBM-8.6.1936],.. Phụ nữ tân tiến kêu gọi “Chị em ta nên trừ cái nạn mãi dâm” [PNTT-1.4.1933]... 
    Các báo khác như: Hoàn cầu tân văn, Thời báo, Việt báo, Công luận, Đông Pháp... cũng quan tâm và đề xuất cần giải quyết nạn mãi dâm ra sao? Có thể bài trừ được không?... Các ý kiến đều phản đối chế độ mãi dâm, bày tỏ sự lo lắng trước tình trạng bệnh hoa liễu lây lan trong xã hội mà họ cho rằng sẽ làm yếu giống nòi, hạ thấp nhân cách phụ nữ... Nhưng cũng có ý kiến cho rằng “nếu con người trên trái đất này còn đứng dưới chế độ phong kiến, chế độ phú hào” thì đó là một việc không thể bài trừ. Bản thân các cô gái khi đã trót mang nghiệp này vào thân sẽ trọn đời theo nghiệp ấy vì định kiến xã hội mà họ không thể hoàn lương... 
     Có ý kiến lại cho rằng mãi dâm tồn tại là do nhu cầu khách quan, phần đông những người lao động nghèo nên không lấy được vợ mà họ cũng có nhu cầu sinh lý như mọi người... Ngoài ra còn có những người bất mãn về đường tình duyên, nếu không có nghề này họ sẽ trở thành những người gian dâm (!) [ĐP-20.12.1936]. Hoặc có ý kiến cho rằng có nghề mãi dâm vì có người mua dâm, vì giáo dục gia đình còn có chỗ khiếm khuyết, vì chế độ hôn nhân ép gả, vì phụ nữ không có việc làm...
Hầu hết các ý kiến đều thống nhất cho rằng: vấn đề mãi dâm là một vấn đề xã hội, một vấn đề không dễ giải quyết.  Muốn cấm nghề mãi dâm “ trước hết phải cải tạo xã hội, cải tạo kinh tế” [ĐP-20.12.1936], phải “giải quyết từ căn nguyên sự tổ chức xã hội”...Trong khi chưa thể bài trừ được ngay thì cần “phải tìm cách ngăn ngừa sự hại của nó”. Có ý kiến cho rằng cần phải kiểm soát việc hành nghề, kiểm tra về mặt y tế... đối với gái mãi dâm [ĐBM- 16.2.1935], phổ biến cách chữa các bệnh do nạn mãi dâm gây ra... Và để hạn chế nạn mãi dâm phát triển, trước hết tìm việc làm cho phụ nữ, đẩy mạnh giáo dục gia đình và quan trọng là hạn chế người mua dâm “cổ động đừng ai dùng thứ đó nữa” anh em thiếu niên ai cũng luyện tập lấy lòng quả quyết tự chủ” vì “bài trừ nghề mãi dâm là bổn phận của anh em đó”. Tác giả đề nghị phải có sự hợp tác của toàn xã hội trong việc vận động bài trừ nạn mãi dâm bằng cách “tổ chức nhiều cuộc nói chuyện về cái hại son phấn để giắt(dắt) nhau xa cái xóm bình khang, cũng như chỉ vào bát thuốc độc bảo nhau rằng “này thuốc độc đấy, đừng ai uống” [TB- 31.1-1.2.1931]. Phụ nữ tân tiến đề nghị “mãi dâm còn lưu ngày nào thì ta đánh đổ cho tới kì cùng”. Để làm được điều đó phụ nữ cần “phải có năng lực, phải bồi bổ tinh thần, đào luyện tư tưởng xa đường mộng mị, tìm đường thực nghiệp”, khuyên răn dạy bảo nhau. “Đối với hạng vô giáo dục, ta phải làm sao cho họ được giáo dục, với người không có nghề ta phải làm cho có nghề, có nghiệp”, còn hạng có học vấn mà sa ngã thì lấy lẽ phải trái phân giải cho rõ ràng... [PNTT-1.4.1934].
         Đối với tình trạng “hát cô đầu”- một dạng của mãi dâm, báo Trung Bắc chủ nhật làm một cuộc trưng cầu ý kiến về các giải pháp nhằm khắc phục và hạn chế những tác hại của nó đối với xã hội đã nhận được 1061 ý kiến gửi đến góp ý. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng cần phải bắt các cô đầu đi khám bệnh để ngăn chặn tình trạng bệnh hoa liễu lây lan trong xã hội. [TBCN-27.9 & 4.10.1942]
         Trong thời kỳ này, Đảng cộng sản cũng đề ra chủ trương “chống chế độ nhiều vợ, phản đối chính phủ Pháp duy trì và lợi dụng chế độ làm đĩ để thu thuế” [42, tr66,67]. Vì vậy, trên các báo Đảng và  trên truyền đơn của Đảng cộng sản thường đề ra các khẩu hiệu như: chống nạn mãi dâm và tuyên truyền vận động phụ nữ tham gia vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một xã hội mới văn minh, bình đẳng. Đây được coi là con đường thiết thực nhất để xoá bỏ nạn mãi dâm trong xã hội, nâng cao địa vị của phụ nữ cũng như tôn trọng 
nhân cách của họ.

 Kết luận
      Từ những năm 1930, cùng với sự phát triển của báo chí tiếng Việt, nhiều vấn đề xã hội được báo chí quan tâm, trong đó có vấn đề mãi dâm. Vấn đề mãi dâm trên báo chí đã phản ánh thực trạng mãi dâm- một thực trạng đen tối, đáng lo ngại và đời sống tủi nhục của tầng lớp phụ nữ hành nghề mãi dâm trong xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa. Không chỉ dừng lại ở đó, các nhà báo đã cố gắng tìm hiểu nguồn gốc của hiện tượng mãi dâm trong xã hội, cũng như những nguyên nhân dẫn đến nạn mãi dâm. Đặc biệt báo chí thời kỳ này đã đề xuất những giải pháp cho việc bài trừ nạn mãi dâm và hạn chế những tác hại do nạn mãi dâm gây ra.
     Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, vấn đề mãi dâm là một vấn đề xã hội  rất phức tạp, không đơn giản chỉ là vấn đề kinh tế và có thể giải quyết nó bằng một cuộc cách mạng xã hội. Bên cạnh đó, những vấn đề đặt ra trên báo chí tiếng Việt trước cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa ra những gợi ý đáng quan tâm về việc tuyên truyền chống nạn mãi dâm, cũng như vai trò của báo chí trong việc bài trừ nạn mãi dâm và xây dựng xã hội mới.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1.Báo Phụ nữ tân văn (1929-1935) Viết tắt : PNTV
2. Phụ nữ thời đàm (1930-1934)                     PNTĐ
3. Phụ nữ tân tiến (1932-1934)                       PNTT
4. Đàn bà mới (1934-1937)                             ĐBM
5. Thời báo  (1931)                                          TB
5 Công luận(1916-1939)                                  CL
6. Việt báo (1936-1942)                                  VB
7. Hoàn cầu tân văn (1933-1938)                     HCTV
8. Đông Pháp (1925-1945)                              ĐP  
9. Trung Bắc chủ nhật(1940-1945)                   TBCN
10. Đảng cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, t4, NXB Chính trị Quốc gia.





Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Bi – tản mạn về đàn ông và thân phận người phụ nữ- một góc nhìn nhân văn


Bi- Tản mạn về đàn ông


Lê Cự Linh
Hôm nay tôi phải viết về đàn ông, nhất định là viết về đàn ông. Tại sao? Không phải vì tôi đã từng viết, có những nhận xét đặc biệt gì về đàn bà mà nay phải chuyển qua đàn ông. Mà có lẽ là do cả tuần vừa rồi tôi có nhiều việc bận rộn, phần nhiều vì có liên quan tới những việc của một số người đàn ông, và điều đó khiến cho tôi thấy mệt rã rời, nhưng không thể không nghĩ về cuộc đời người đàn ông được.
Tôi viết về đàn ông, nhưng phải bắt đầu như thế nào đây? Cho phù hợp với một nửa của thế giới này, có cả tôi trong đó? Và thật vô cùng thuận tiện – tôi vừa xem xong một bộ phim mang cái tên “Bi ơi đừng sợ” trong đó là một tuyến các nhân vật “đàn ông” Việt Nam, từ nhân vật tạm gọi là chính – cậu bé Bi, cho tới bố cậu, ông cậu, và một vài người đàn ông khác lãng đãng xuất hiện trong cả bộ phim. Tôi không quan tâm lắm tới việc bộ phim có kẻ khen người chê, tôi chỉ viết ra những gì mình cảm nhận, ngẫm nghĩ…



1. Chua xót cho người đàn bà, và cảm thông với họ

Quái lạ, đã bảo sẽ viết về đàn ông cơ mà? Sao lại quay về đàn bà thế này? Vâng, tôi không sao rũ bỏ khỏi đầu cái ấn tượng đầu tiên về bộ phim này, đó chính là về cuộc sống của những người đàn bà trong phim. Hãy xem trong phim những người đàn bà đang sống như thế nào? Một người vợ khá đẹp, đằm thắm, có lẽ đang ở độ tuổi 30-40, độ tuổi chín vào bậc nhất của đời người phụ nữ. Vậy mà cô sống ra sao? Hay cứ đến bữa là vác máy ra gọi vào di động của chồng, xem anh đang ở đâu, liệu có thể đừng về nhà quá muộn không? Khi ông bố chồng ốm nặng, chính cô là người nâng giấc ông từng li từng tí một, không hề có một lời phàn này, thậm chứ một tiếng thở dài chán nản hay sự khinh rẻ ông cũng không hề bật ra… Có đêm, nhu cầu của người đàn bà trỗi dậy, cô chạm vào người chồng không phải chỉ một lần, không phải chỉ e dè khẽ khàng, vậy mà cô nhận được cái gì? Bao lo toan hàng ngày của người phụ nữ, cô không hề được chồng chia sẻ lấy một chút đỉnh… 

Người em chồng của người phụ nữ lại là một nhân vật nữ khác. Cô gái hơi “quá lứa nhỡ thì” đó có thể có một tấm chồng xứng đáng chứ? Chắc là thế. Cô không xấu tẹo nào, nếu không nói là xinh là đằng khác. Cô nhẹ nhàng và đúng mực (như nhiều cô giáo). Vậy mà cô đang được gì trên đời? một người đàn ông được mai mối cho cô, trông qua diện mạo và tính cách thì có thể đoán được là anh ta thế nào. Và những khát vọng rất con người, rất thầm kín của cô gái được giải tỏa bằng cách nào đây? Những dồn nén sâu kín trong con người cô đâu chỉ đơn giản là chỉ dùng vài viên nước đá vào giữa đêm là hạ hỏa được? khát vọng của cô đâu chỉ đơn giản là thể xác, vậy nhưng có lẽ chưa có lối thoát cho cô, kể cả cho tới cuối phim, khi có vẻ như cô sắp cưới cái người đàn ông cục mịch đó…  

Người phụ nữ thứ ba – người nữ nhiều tuổi nhất trong phim cũng không hề nói nhiều, bà diễn qua ánh mắt, và nhất là giọng nói. Nhưng hãy nghe bà tưng tửng nói về việc có từng làm gì đi nữa thì người đàn ông đó (ông nội của bé Bi) cũng bỏ đi khỏi nhà, có khi đi cả chục năm không về và “chả ai biết ông ấy đi đâu, làm gì cả” (?!) – chúng ta lại thấy một cái bóng nữa, hy sinh, và nhẫn nhục…

Hãy nhìn người phụ nữ cuối cùng cũng có xuất hiện trong phim ít phút – cô thợ gội đầu, có thể nói là cô bồ nhí của ông bố của bé Bi. Căn nhà cô sống và tiếp khách gội đầu có thể nhìn thấy một chút sinh khí, một chút bầu trời không?

Vậy nên, đã giao hẹn là viết về đàn ông, nhưng không sao bỏ được cái nhìn đầu tiên là tác giả đã cho chúng ta thấy một loạt những người đàn bà đương thời… Và hãy nghĩ kỹ, phải chăng những người phụ nữ quanh ta cũng có ít nhiều trải qua những chịu đựng mà họ phải chịu? ai không từng thở dài khi chồng quá chén về say bí tỉ, nằm vật ra giường? ai không từng nấu nướng tưng bừng để rồi chồng chẳng đoái hoài gì đến?



2. Đàn ông: từ đứa trẻ vô tư lự đến ông cụ đầy uẩn khúc  

Bi – nhân vật trung tâm của bộ phim có khá nhiều nét của một cậu bé điển hình như bao cậu bé khác, như cả chính tôi theo một nghĩa nào đó… Cậu nghịch ngợm chạy khắp nơi, cậu giấu những chiếc lá, quả táo vào những chỗ hóc hiểm, cậu thậm chí cho quả táo vào tảng nước đá… Như tác giả cố ý ẩn dụ - hành trình từ Bi cho tới ông bố và người ông của cậu tượng trưng cho sự lớn lên, sự trưởng thành, vòng đời của một người đàn ông, của tất cả đàn ông. Ở Bi chúng ta thấy sự trong sáng, thấy sự khao khát tìm hiểu thế giới, thấy những nét hồn nhiên. Bất giác tôi nhận ra tôi đã thấy lại những ký ức thời xa xưa qua Bi. Chính tôi từng nô đùa với các bạn cùng lứa với khẩu súng ống bơ kêu leng keng, giấu những thứ “bí mật” vào các hốc cây, bờ tường. Chính tôi cũng từng có “kho tàng bí mật” chứa những thứ chỉ mình tôi biết trong những nơi hóc hiểm nhất của khu nhà xây cất từ thời Pháp thuộc của bà ngoại, để đến khi tôi đã lớn đùng, hơn hai chục tuổi mới chợt nhớ ra, vội vàng phóng đến đó để “khai quật” và chuyển nó đi vừa kịp trước khi bà tôi bán nhà – hú vía là các món đồ (có giá trị kha khá chứ chẳng chơi) không suy suyển gì.
Vậy ông bố của Bi thì sao? Tính từ đầu tiên mà tôi nghĩ tới để mô tả anh ta là “bệ rạc”. Anh ta chưa bao giờ tỏ ra một chút thương cảm và trách nhiệm với bất kỳ ai thân thuộc. Trong cả bộ phim anh ta không chạm vào người cô vợ với một vẻ yêu thương bao giờ, dù chỉ là một cái vuốt tóc, hay nắm tay. Trong cả bộ phim anh ta gần như chưa nói một lời nào với ông bố nằm đờ đẫn vì căn bệnh giai đoạn cuối. Anh chưa hề có một câu âu yếm với con, hay tỏ ra chăm sóc Bi. Ngay cả với cô bồ nhí, tôi cũng không thấy sự nhiệt thành nơi anh. Một nỗi chán chường dường như tẩm đẫm con người này. Không chính kiến rõ ràng, không tương lai sáng sủa, không trách nhiệm, không tình thương. Các cảnh quay nhắc đi nhắc lại anh chủ yếu bên hè phố - nơi một quán bia hơi vỉa hè ồn ào, nóng bức… Những giọt mồ hôi nhễ nhại, những cái nhìn thờ ơ, thuốc lá phun khói từng vòng từng vòng… Cử chỉ nhiệt tình duy nhất ta được chứng kiến – thật trớ trêu - lại là sau khi định âu yếm cô bô nhí nhưng không được, anh ta mò về nhà, và lần này không phải đợi vợ gợi ý, anh lao vào vợ hùng hục. Bối cảnh này của bộ phim cũng rất “con người” theo nghĩa bản năng đàn ông không được thỏa mãn ở nơi người đàn bà này thì nhanh chóng chuyển qua một “lựa chọn thứ hai”. Chỉ có điều, người vợ mà anh không bao giờ chia sẻ gì lại là lựa chọn thứ hai, chẳng qua là khi cô bồ - bí mật bé nhỏ của riêng anh (tựa như quả táo mà bé Bi ngầm giấu trong két nước đá) cự tuyệt anh mà thôi. Xem cảnh hai vợ chồng đó trong đêm, tôi nghĩ thật là đúng khi người văn minh phân biệt rất rõ “making love” và “having sex”. Chua xót không? Và là chua xót cho ai? Có thể có người sẽ thương cảm người vợ. Cô phải chịu sự “lãnh cảm” từ phía anh chồng đã khá lâu, nay “ruộng hạn gặp mưa rào” thì lại chẳng qua là do anh ta không thể làm cái việc bản năng đó với bồ, mới bò về nhà với vợ? Có thể sẽ có người nghĩ, khi không còn tình yêu nữa thì cái họ làm với nhau chỉ đơn thuần là “bản năng” là giải tỏa thể xác? Tôi thì trộm nghĩ, có lẽ người đàn ông đó mới là đáng xót xa. Nghe hơi kỳ, cô vợ bị chồng ruồng rẫy và chính anh ta ngoại tình cơ mà? Nhưng phải nghĩ cho kỹ thì mới thấy, cô ta không mất gì cả, ngoài một chút thời gian và tiền bạc và chồng chi ra cho cô bồ. Cô ta có lẽ đã mất tình yêu với chồng từ lâu lắm rồi. Không gì thay đổi được. Còn lại, cô ta vẫn có phẩm giá, có sự trong sạch. Trong khi, anh chồng đó, có lẽ đã mất định hướng cuộc đời, mất cả sự nhiệt tình với cuộc sống, hay có lẽ, anh ta cả đời cứ lang thang đi tìm một điều gì đó?

Anh ta vẫn như đang tìm cách khẳng định cái “tôi” đàn ông của mình mà dường như hành trình đó quá vô vọng, không có đích đến. Có thể thấy rõ ẩn ý đó của tác giả khi cho anh ta đứng trong khuôn hình trên khu nhà cao tầng cũ kỹ, vóc dáng anh ta lọt thỏm nơi khung cửa to hình chữ nhật, tối và rêu phong, mắt nhìn ra xa mà chưa thấy điểm chạm. Trong khi đó, xa xa phía sau khu nhà cũ kỹ đó là những cao ốc mới sáng màu đang mọc lên nhanh chóng… Khung hình này tôi chấm điểm vào loạt đẹp nhất trong cả bộ phim, nhìn rộng lượng một chút, tôi nghĩ cảnh quay đó sánh ngang được với nhiều bộ phim tên tuổi của thế giới. Nó thực quá, mà cũng ảo quá, rất đẹp về mặt nghệ thuật, nhưng cũng quá đỗi gần gũi với cái bụi bặm của cuộc sống thực. Xem cảnh đó, tôi vừa thấy bức bối, ngột ngạt, vừa thấy được nỗi thống khổ của nhân vật, tựa hồ anh đã mắc kẹt trong một thế giới cũ kỹ, đầy rẫy những ràng buộc khắt khe, đầy rẫy những điều cần phải “đập bỏ đi xây lại từ đầu” – nhưng đồng thời, anh ta cũng không sao với tới thế giới mới – đẹp đẽ hơn, hoàn hảo hơn, cách đó không bao xa… “Vô vọng” - có lẽ chỉ một từ như thế…

Người đàn ông già nhất trong tuyến nhân vật – ông của Bi – thì có quá nhiều ẩn ức. Chúng ta có thể nói được gì về ông? Ngoài một nỗi đau thể xác hành hạ từng ngày từng giờ, ngoài một tương lai kết cục đã nắm chắc? Còn quá khứ của ông? Đi đâu đó cả đời, không một lời với vợ con? Nghe kỳ cục, nhưng tôi thấy chẳng xa lạ gì cả. Trên đời này chắc chắn có vố số những người đàn ông như thế. Dẫu không đến mức đi đâu làm gì không ai biết. Nhưng chẳng qua, chúng ta phải hiểu rằng đây chỉ như một phép ẩn dụ của phim, rằng thực chất khắc họa những người đàn ông sống mà như chưa hề tồn tại bên người thân? Họ có thực ngoài đời không? Tôi đoan chắc là có. Và chỉ nhìn vào phim chúng ta cũng thừa đủ để suy diễn, rằng ông bố của bé Bi ở tuổi đó đã chán vợ con đến mức đi bia hơi suốt chiều tối, thì không khó hiểu gì, nếu sẽ đến lúc anh ta như chính ông bố đẻ - bỏ đi mất tăm luôn. Một lần nữa, kiểu đàn ông vô trách nhiệm lại được khắc họa ở người ông. Tuy vậy, dường như chính ông đang phải trả giá cho sự vô trách nhiệm đó, bằng nỗi đau cuối đời hành hạ hàng ngày…

Tuổi vị thành niên của đàn ông được khắc họa thoáng qua trong hình hài của nhân vật nam sinh trong bộ phim. Cậu đẹp đẽ, vô tư lự, không đến mức như bé Bi, nhưng vẫn còn đầy vô tư trong sáng nếu đem so với bố của Bi. Nhưng dường như, vẻ đẹp thanh xuân của cậu tạo ra cảm giác lo âu nữa. Bộ phim này tạo cảm giác ngay cả vẻ nam nhi của chàng trai dường như cũng rất mong manh, và sẽ sớm phải đối mặt với thế giới bụi bặm đang đón đợi cậu.
Điều thú vị, là sự xuất hiện của một tuyến những nhân vật nam như thế, không chỉ tạo ra suy nghĩ về vòng đời của người đàn ông – quá khứ tuổi thơ, tuổi trẻ, hiện tại - trung niên, tương lai – về già; mà còn tạo ra sự so sánh thế hệ ít nhiều với hàm ý nhân quả. Sẽ không sai nếu suy diễn rằng quá khứ của người ông tạo ra người ông ngày hôm nay, và nó trực tiếp hay gián tiếp để hậu quả lên con trai ông. Sống trong một gia đình mà người cha thường xuyên không có mặt, bỏ bê nghĩa vụ làm cha, nhiều quá khứ không bằng phẳng, liệu anh con trai có lớn lên được thành một người khá hơn không? Hay anh ta sẽ lại đi theo con đường đó, và dần dần lạnh lùng với gia đình, với xã hội? Ta như nhìn thấy mối tương quan đó hiển hiện khi đặt ông của Bi với bố của Bi. Vậy ta có đủ lý do để lo sợ cho Bi chưa? – phải chăng vì thế các nhà làm phim gọi bộ phim này là “Bi ơi đừng sợ” ?

Nếu như tuyến nhân vật nữ như đã nói trên cho chúng ta thấy nghị lực sống, sự chịu đựng và thương cảm, thì dường như tuyến nhân vật nam tạo ra một cảm giác vừa đáng thương vừa đáng giận? Rõ ràng có những thứ đã xô đẩy người đàn ông trong xã hội hiện đại nên nông nỗi đáng chán như thế ? Tại sao họ lại bế tắc đến thế? Phải chăng khung hình bên các toà nhà cao tầng đã nói lên tất cả? Họ đang bị mắc kẹt, kẹt trong các định chế xã hội, kẹt trong những khát vọng và ẩn ức của chính họ, hay còn vì điều gì khác? Đương nhiên, không ai mong muốn tất cả, hay thậm chí là phần đông đàn ông Việt Nam chúng ta sẽ như họ, nhưng ai đảm bảo là sẽ không theo những hành trình cuộc đời như thế?



3. Một bức tranh đời sống thực như nó vốn thế 

Một ấn tượng rõ rệt đối với tôi là các nhà làm phim đã thành công trong việc khắc họa câu chuyện sống động và gần gũi. Phim là tổng thể của nhiều nỗ lực nghệ thuật đặc biệt đáng trân trọng. Về các mảng mầu, gam mầu, phim có nhiều cảnh quay đặc sắc và tận dụng tương phản cực tốt giữa những mầu nóng như đỏ thắm, với những gam mầu lạnh thể hiện sự lạnh lùng, bẽ bàng, những gam mầu tối u uất và không rõ tương lai. Không những thế, sự tạo hình về mặt đường nét và hình khối cũng rất có nét. Những ô cửa góc cạnh, tạo sự cứng nhắc, bức bối, đóng khung cuộc đời người đàn ông. Những nồi bánh trôi bánh chay, đĩa bánh bột trắng ngần, tròn trặn, như đối lập với sự vuông thô kể trên, với những ngón tay phụ nữ rắc bột mịn lên đĩa bánh, đẹp một cách giản dị. Những hình khối cầu lặp đi lặp lại – khi các quả táo đỏ rộm lăn ra trên sàn, hoặc khi đứa trẻ thổi những bong bóng xà phòng. Những cột đá nhấp nhô nơi bãi sông, rồi những bụi lau sậy, các ô cửa sổ được nhắc đi nhắc lại – có thể là một trong vô số khu nhà rất phổ biến ở thành phố, v.v.  tất cả được sắp đặt tạo những hiệu ứng bổ trợ rất đáng chú ý cho người xem. Không những thế, cảm giác về nhiệt độ cũng rất rõ, và tương phản, khi người xem thường xuyên nhìn thấy những viên đá, những cây nước đá mát / lạnh đến bốc hơi, bên cạnh những hình ảnh con người nóng nực, nhễ nhaị mồ hôi...

Tôi cũng rất thích cách xử lý âm thanh trong phim này. Âm thanh gợi ấn tượng của một đời sống đô thị ồn ào, pha tạp nhiều thứ. Những tiếng ồn trên vỉa hè, thông tục, những tiếng lanh canh của xe cộ, tiếng mưa, rồi tiếng hàm răng người đàn ông nhai miếng táo lạo rạo trong miệng,v.v. tất cả đều rất thực, y như là cuộc sống của chúng ta, không hoàn hảo, không tĩnh lặng và đầy pha tạp của nhiều yếu tố.

Đặc biệt, tính chân thực của những thước phim này còn thể hiện qua các cảnh quay sinh hoạt hết sức chân thực, các nhân vật có những động tác, cử chỉ tựa hồ như họ đang không diễn, mà chính là họ sống như người bà, người mẹ, người chị, người cha của chúng ta. Nếu ai là đàn ông, khi xem đến đoạn cậu thanh niên lẻn vào bụi cây trên bãi ven sông để đi tè, hẳn sẽ không khỏi bật cười vì những động tác hết sức đời thường, hết sức “đàn ông” của nhân vật. Và nữa, cách chọn ngoại hình và thân phận của nhân vật cũng tương đối phù hợp. Nhân vật Bi khá tiêu biểu cho trẻ em lứa tuổi đó. Trừ cô của Bi là giáo viên thì đã rõ, nhân vật mẹ Bi không thật rõ là làm nghề nghiệp gì. Còn nhân vật bố Bi có vẻ như làm trong ngành xây dựng gì đó, nhưng cũng không chắc chắn. Anh ta không đẹp trai như các nam siêu mẫu chuyển qua đóng phim, nhưng chính điều đó làm tôi thấy thích. Bởi những người đàn ông như thế chúng ta có thể bắt gặp hàng ngày ở tất cả các quán bia hơi vỉa hè, trong nhiều công sở, nhiều công trình đang thi công,v.v. Anh ta, cũng như vợ anh ta, bố anh ta, có thể là bất kỳ người nào trong số chúng ta, dường như ta có thể thấy những khuôn mặt đó ngay khi ra phố, nhìn xung quanh mình.

Xem xong bộ phim về đàn ông đó, tôi thấy đọng lại cả hình ảnh đàn ông và đàn bà, và cả đời sống chung của họ. Đương nhiên, bộ phim cũng còn có vài hạt sạn, nhưng tôi thiết nghĩ, đến phim đỉnh cao của Holywood còn thỉnh thoảng sạn to sạn nhỏ, làm sao tránh khỏi được. Và tôi tò mò lên mạng đọc về đạo diễn Phan Đăng Di, thú vị nhận ra anh có vẻ cùng một trường phái và làm việc chung với anh Bùi Thạc Chuyên. Không ngạc nhiên là các anh cùng nhau sáng tạo, bởi phong cách của các anh có thể nhận thấy rõ, và quả là các anh đều đã tạo ra những tác phẩm điện ảnh có giá trị trong cái thời buổi đang nhá nhem tranh tối tranh sáng của điện ảnh nước nhà. Tôi bất giác nhớ lại có lần từng gặp anh Chuyên trong một buổi tiếp tân của một tổ chức quốc tế tại một khách sạn ở Hà Nội khi cả hai chúng tôi cùng được mời. Trong đám đông rất nhiều người làm về những lĩnh vực xã hội, văn hóa và giáo dục, tôi nhận ra anh và nói chuyện với anh ngắn gọn. Còn nhớ, tôi đã khen phim “Sống trong sợ hãi” của anh và nói rằng tôi đánh giá phim đó – cũng làm về đề tài người lính sau chiến tranh – nhưng còn hay hơn phim “Đời cát” khá đình đám lúc bấy giờ. Lúc đó, anh Chuyên đã cười mãn nguyện, vẻ cảm kích của người nghệ sĩ được người xem đón nhận và đánh giá cao đứa con tinh thần của mình, rồi anh nói thêm về những dự án làm phim sắp tới của mình. Chắc tôi cũng sẽ phải tìm dịp nào đó gặp anh Di trực tiếp để nói với anh những gì tôi nghĩ về “Bi – đừng sợ”.

nỗi sợ của Bi – hay là nỗi lo của ai khác?

Vậy “Bi ơi đừng sợ” liệu có làm cho chúng ta “xem xong càng sợ” không? Riêng tôi cho rằng, phim không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật khắc họa các giai đoạn vòng đời của người đàn ông, cách đàn ông lớn lên, trăn trở đi tìm chính mình, khẳng định giá trị đàn ông của mình một cách đơn thuần. Có thể tôi mắc bệnh hay suy diễn, nhưng tôi thấy ngổn ngang một xã hội, một môi trường sống khá khắc nghiệt cho cả đàn ông và đàn bà Việt Nam đương đại. Lẽ dĩ nhiên, không thể khái quát hóa những nhân vật nam này cho tất cả đàn ông Việt Nam hiện nay. Không phải anh nào cũng chê vợ rồi đi ra ngoài bia hơi tùm lum, chả đoái hoài gì đến người thân. Nhưng tôi cứ thấy băn khoăn cho tương lai của tất cả bọn họ. Như thể có một niềm chán chường, nỗi bất mãn nào đó đang lan sâu, gặm nhấm họ vậy. Và đàn bà cũng đang chịu đựng tất cả những nỗi niềm đó, nhưng thậm chí còn đang bị dồn nén thành những tiết chế cảm xúc và bản năng sâu kín hơn. Đâu là câu trả lời cho những số phận đó? Tôi không nhìn thấy rõ ràng. Nhưng dường như hy vọng mong manh nhất lại đặt chính vào bé Bi. Mong sao thế hệ tương lai tránh được những vết xe đổ của người đi trước, và tạo dựng được một xã hội mới?


========
[ mở ngoặc :

các khung hình ở trên chỉ nhằm minh họa cho bài viết, được tôi trích từ phim “Bi, đừng sợ” bằng cách chụp kết xuất màn hình trên máy tính, bản quyền hoàn toàn thuộc về những nhà làm phim. Bộ phim có thể tải xuống từ trang:

PHONG TRÀO TẨY CHAY HOA KIỀU Ở VIỆT NAM NĂM 1919 (qua nguồn tư liệu báo chí đầu thế kỷ 20)*

                                                                                                          Đặng Thị Vân Chi * Đặt vấn đề T...