Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2010

TỪ VĂN LANG ĐẾN THĂNG LONG – QUÁ TRÌNH TÌM CHỌN KINH ĐÔ MUÔN ĐỜI CỦA ĐẤT NƯỚC

GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc
( Bài đăng trên báo Nhân dân ngày 3 tháng 8 năm 2010)
Kinh đô là trung tâm chính trị, hành chính, quân sự, kinh tế và văn hóa của đất nước. Dời đô và định đô là công việc có ý nghĩa trọng đại không chỉ phản ánh nhu cầu của triều đại, đất nước và xã hội, mà còn là thước đo trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, văn minh của một đất nước, một vương triều.
Thời đại dựng nước của Việt Nam được mở đầu trong khoảng từ 6-7 thế kỷ trước Công nguyên đến một vài thế kỷ sau Công nguyên với sự ra đời của ba nhà nước: Văn Lang ở khu vực Bắc Bộ, Chămpa ở khu vực Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Phù Nam chủ yếu ở khu vực Nam Bộ, nhưng dòng chủ lưu của toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam được tính từ nhà nước Văn Lang, Âu Lạc qua nghìn năm Bắc thuộc đến các quốc gia Đại Việt, Đại Nam và Việt Nam. Trong giai đoạn lịch sử từ khi nhà nước đầu tiên xuất hiện cho đến đầu thế kỷ XI, nếu chỉ quan sát riêng dòng chủ lưu, không tính những chính quyền đô hộ của ngoại bang, đã trải qua nhiều lần chuyển đổi trung tâm chính trị-hành chính của đất nước, từ Cổ Loa, Hoa Lư đến Thăng Long. Mỗi lần định đô và dời đô đều có những lý do, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng đều như những bước chuẩn bị cho công cuộc định đô ở Thăng Long của Lý Thái Tổ vào năm 1010.
Vua Hùng dựng nước Văn Lang vào khoảng thế kỷ thứ VII hay thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, lấy tên kinh đô là Văn Lang. Tương truyền Hùng Vương từ ngày đầu dựng nước đã chọn ngã ba sông Bạch Hạc (tương đương với khu vực thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) làm địa điểm xây dựng kinh đô Văn Lang. Nước Văn Lang tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ VI đến năm 208 trước Công nguyên. Trong gần một nửa thiên niên kỷ ấy, trên đất Văn Lang, kỹ thuật rèn sắt đã có những bước phát triển lớn, công cụ sản xuất bằng sắt từng bước giữ vai trò chủ đạo trong nền sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp dùng cuốc đang chuyển dần sang nông nghiệp dùng cày. Năng suất lao động được nâng cao, đời sống cộng đồng được cải thiện và cảnh quan đồng bằng thay đổi nhiều. Nước Âu Lạc ra đời trên căn bản hợp nhất giữa Tây Âu và Lạc Việt, giữa Hùng và Thục, trong bối cảnh cộng đồng cư dân đã khai thác được toàn bộ vùng châu thổ, biến thành đồng ruộng, xóm làng, phát triển thâm canh nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước. Theo đà phát triển này, trung tâm đất nước có xu hướng chuyển về khu vực trung tâm châu thổ sông Hồng. Và An Dương Vương đã quyết định dời đô xuống Cổ Loa, ngay phía trên ngã ba sông Hồng và sông Đuống.
Khảo cổ học đã tìm thấy di tích văn hóa Sơn Vi ở Cổ Loa chứng tỏ từ hậu kỳ Đá cũ cách ngày nay khoảng một vạn năm nơi đây đã có con người sinh sống. Tuy nhiên, sau đó là thời kỳ biển tiến và suốt trong thời đại Đá mới, vùng đất Cổ Loa lại vắng bóng người. Mãi cho đến đầu thời đại Kim khí, cùng với quá trình biển thoái, người Phùng Nguyên tràn xuống Cổ Loa và khu vực trung tâm châu thổ sông Hồng lập ra những xóm làng sống bằng nghề trồng lúa nước, làm vườn, đánh bắt thủy sản và săn bắn. Trên địa bàn huyện Đông Anh ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy trên những doi đất cao hai bên bờ sông Hoàng Giang các di chỉ Đồng Vông (Dục Tú), Bãi Mèn (Cổ Loa), Đình Tràng lớp dưới (Dục Tú), Xuân Kiều, Lỗ Khê (Liên Hà) thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên; các di chỉ Tiên Hội, Bãi Mèn lớp trên, Đình Tràng lớp giữa, Xuân Kiều lớp trên thuộc giai đoạn Đồng Đậu và Đường Mây (Cổ Loa), Đình Tràng lớp trên thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Ngoài ra ở Cổ Loa còn tìm được rất nhiều các hiện vật đồng như mũi tên đồng, lưỡi cày đồng, trống đồng, rìu đồng, trong đó trống đồng, mũi tên đồng và lưỡi cày đồng là các hiện vật đặc trưng và tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Như vậy, trải qua quá trình phát triển lâu dài và liên tục từ sơ kỳ thời đại đồ đồng cho đến sơ kỳ thời đại đồ sắt, vùng đất Cổ Loa cũng đã hình thành một trung tâm dân cư, trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng của nước Văn Lang.
Dấu tích còn lại ở Cổ Loa cũng cho phép xác định tòa thành Cổ Loa gồm ba vòng thành và hào khép kín. Thành Nội hình chữ nhật, chu vi 1.730m, mở một cửa về phía nam. Thành Trung có chu vi 6.300m, mở năm cửa: Nam, Đông, Bắc, Tây Bắc, Tây Nam. Thành Ngoại có chu vi 7.789m, có ba cửa: Đông, Tây, Bắc và cửa Nam chung với cửa Nam của thành Trung. Thành Cổ Loa là một kiến trúc quân sự đồ sộ, kiên cố, được phòng vệ chắc chắn, kết hợp chặt chẽ giữa quân bộ và quân thủy. Mặc dù sau này tòa thành được nhiều lần tái sử dụng, tu sửa hay xây đắp thêm, nhưng những dấu tích còn lại cho đến ngày nay trên căn bản vẫn là hình ảnh tòa thành kinh đô của nước Âu Lạc xưa. Trong thành, An Dương Vương cũng đã xây dựng đền đài, cung điện. Khu vực Đền Thượng được coi là nơi ở của nhà vua và khu vực đình Ngự Triều Di Quy là nơi thiết triều.
Năm 179 trước Công nguyên, do sai lầm chủ quan của An Dương Vương, nước Âu Lạc bị rơi vào tay Triệu Đà. Thành Cổ Loa mất đi vị trí kinh thành, nhưng vẫn được các chính quyền đô hộ tiếp tục khai thác, sử dụng như những trung tâm chính trị-hành chính địa phương.
Nhà Đông Hán đặt trung tâm của chính quyền đô hộ ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của Đông Hán, chiếm thành Cổ Loa làm bàn đạp tấn công giải phóng Luy Lâu, giành lại nền độc lập, chọn Mê Linh (Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội), ngay trên bờ sông Hồng làm đất đóng đô. Triều đình Trưng Vương chỉ tồn tại 3 năm (40-43), nhưng đã trở thành cột mốc bản lề của lịch sử đất nước, khẳng định các giá trị vĩnh hằng của thời đại dựng nước Văn Lang, Âu Lạc và mở đường, định hướng cho tương lai phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc suốt cả thiên niên kỷ thứ nhất.
Năm 542, Lý Bí – hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ) tiến hành cuộc khởi nghĩa dân tộc thành công, đánh đuổi quân Lương ra khỏi bờ cõi. Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu nước là Vạn Xuân, mở nền độc lập, tự chủ, xây Đài Vạn Xuân làm nơi triều hội. Các nhà sử học đời Nguyễn trong sách Việt sử thông giám cương mục cho rằng: “Nay ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì có hồ Vạn Xuân, còn gọi là đầm Vạn Phúc. Vậy điện Vạn Xuân có lẽ là ở đấy”. Lý Nam Đế chọn đất dựng chùa Khai Quốc ở phía ngoài đê Yên Phụ và được chuyển về vị trí cạnh đường Thanh Niên trong Hồ Tây từ đầu thế kỷ XVII. Khi Trần Bá Tiên đem quân sang đánh triều đình Vạn Xuân, Lý Nam Đế đã tổ chức đắp thành ở cửa sông Tô Lịch (khu vực phố Chợ Gạo, quận Hoàn Kiếm) để trực tiếp bảo vệ kinh đô và sau khi thành ở cửa sông Tô Lịch thất thủ, Lý Nam Đế cùng toàn bộ triều đình Vạn Xuân phải rút lên Gia Ninh (Phú Thọ). Các nguồn tư liệu trên cho phép xác định kinh đô Vạn Xuân của Lý Nam Đế được đặt ngay tại vùng đất nội thành Hà Nội hiện nay.
Mặc dù chỉ tồn tại trong khoảng một năm rưỡi (từ tháng 1 năm 544 đến tháng 6 năm 545), nhưng kinh đô Vạn Xuân của Lý Nam Đế lại có vị trí đặc biệt quan trọng, khẳng định vùng đất nội thành Hà Nội đã thực sự phát triển và bắt đầu trở thành một trung tâm của đất nước. Lý Nam Đế là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận ra vị thế ưu việt của vùng đất nội thành Hà Nội và đưa lên thành quốc đô. Tuy nhiên do thế và lực chưa đủ mạnh và thời gian tồn tại quá ngắn nên hình ảnh kinh đô Vạn Xuân trên vùng đất nội thành Hà Nội mới chỉ là vài nét chấm phá ban đầu.
Triệu Quang Phục tiếp tục sự nghiệp của Lý Nam Đế giành lại nền độc lập, nhưng sau đó bị Lý Phật Tử dùng mưu cướp quyền hành và đất đai. Lý Phật Tử lúc đầu đóng đô ở thành Ô Diên (Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội), nhưng sau một thời gian lại chuyển về thành Cổ Loa và duy trì nhà nước Vạn Xuân cho đến năm 602.
Các chính quyền đô hộ Tùy, Đường đều chọn vùng đất nội thành Hà Nội làm trung tâm của chính quyền đô hộ. Năm 622 nhà Đường đặt ra Giao Châu đô hộ phủ, đến năm 679  đổi thành An Nam đô hộ phủ. Năm 769, nhân việc đánh bại các cuộc tấn công của Côn Luân và Chà Bà, Trương Bá Nghi tổ chức đắp La Thành. Có thể hình dung La Thành của Trương Bá Nghi là tòa thành quân sự kiên cố có quy mô lớn đầu tiên được xây dựng tại khu vực trung tâm nội thành Hà Nội. Các năm 791, 808 Triệu Xương và Trương Chu cho tổ chức đắp thêm và tu sửa tòa thành này. Năm 824, Lý Nguyên Gia cho đắp thêm một thành nhỏ khác ở bên bờ sông Tô Lịch, cũng gọi là La Thành. Năm 866, Cao Biền tổ chức “đắp La Thành vòng quanh 1982 trượng lẻ 5 thước,… lại đắp con đê vòng quanh dài 2125 trượng 8 thước…, cùng làm nhà cửa 40 vạn gian”. Như vậy, tuy cùng được gọi là La Thành nhưng trong thực tế có nhiều tòa thành khác nhau của An Nam đô hộ phủ thời Đường. Những tòa thành này vào các đời sau đã nhiều lần được cải tạo, thay đổi, nên hầu như không còn để lại dấu tích trên mặt đất. Từ năm 2002 đến nay, với các chương trình khai quật khảo cổ học quy mô lớn ở khu 18 Hoàng Diệu và khu khuôn viên Hội trường Ba Đình, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở lớp dưới cùng của di tích những móng trụ kiến trúc, bó nền nhà, gạch Giang Tây Quân, dấu tích kiến trúc nhà cửa, giếng nước, cống thoát nước, một số đồ gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc  và Tây Á… có niên đại từ thế kỉ thứ VII đến thế kỉ IX. Đây chính là những hình ảnh chân thực của An Nam đô hộ phủ thời Đường từng được phản ánh qua các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam.
Ở trung tâm của châu thổ sông Hồng, nơi hội tụ và tỏa rộng của các tuyến đường giao thông thủy bộ, có quá trình phát triển lâu dài, đặc biệt vào nửa cuối của thiên niên kỉ thứ nhất, khu vực thành Đại La không chỉ có hệ thống thành hào bề thế và kiên cố làm trụ sở của chính quyền đô hộ, mà đã dần dần hình thành một đô thị quy mô khá lớn và mức độ tập trung dân số cao hơn hắn so với tất cả các vùng khác trong nước.
Đầu thế kỉ X, Khúc Thừa Dụ -  hào trưởng Hồng Châu (Hải Dương ) và Dương Đình Nghệ - hào trưởng Ái Châu (Thanh Hóa) tiếp nối nhau vươn dậy giành quyền tự chủ. Các chính quyền tự chủ đầu tiên của người Việt sau nghìn năm Bắc thuộc đều đóng đô ở thành Đại La.
Năm 938, Ngô Quyền sau trận chiến ở Bạch Đằng lại không chọn thành Đại La mà trở về đóng đô ở Cổ Loa. Ông cho tu sửa lại tòa thành nghìn năm trước, xây dựng đền đài cung điện lên trên các di tích của An Dương Vương. Đôi câu đối cổ ở Đền Thượng mách báo điều này :
                            “Thục quốc sơn hà nguyên Cồ Việt,
                            Loa thành cung cấm tự Tiền Ngô”
                            (Nước Thục non sông nguyên Việt Cồ,
                            Loa thành cung điện tự Tiền Ngô )
Ngô Quyền đã tiến hành nhiều hoạt động xây dựng vương triều, thể chế, nâng tầm kinh đô Cổ Loa thành kinh đô của một quốc gia độc lập. Cổ Loa một lần nữa khẳng định vai trò kinh thành, quân thành và thị thành giống như thời kỳ nhà nước Âu Lạc, nhưng ở tầm cao mới. Tiếc là chỉ sáu năm sau, Ngô Quyền qua đời, triều đình nhà Ngô phân rã và thành Cổ Loa lại bị mất vị trí quốc đô, chỉ còn tồn tại như là cơ sở cát cứ của một sứ quân.
Đinh Bộ Lĩnh mặc dù đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế, lập ra vương triều Đinh, nhưng thế và lực chưa đủ mạnh, tình hình vùng châu thổ sông Hồng vẫn còn phức tạp và nhà Tống đang lăm le xâm lấn bờ cõi, nên trở về đóng đô ở Hoa Lư, vừa tranh thủ tăng cường lực lượng, vừa giữ an toàn cho triều đình.
Kinh đô Hoa Lư chủ yếu nằm trên địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, được bao bọc bởi hệ thống núi đá vôi khá hiểm trở. Nơi đây từ sớm đã là một tụ điểm cư dân ở vào vị trí yết hầu trên trục đường Nam-Bắc, liền sông và không xa biển. Mạch máu giao thông quan trọng nhất nối Hoa Lư với châu thổ sông Hồng và mọi miền đất nước là con đường thủy qua sông Hoàng Long, sông Đáy, đổ ra cửa biển Thần Phù, thông sang Châu Ái và khu vực phía Nam đất nước.
Đinh Bộ Lĩnh cho xây đắp thành lũy nối liền các quả núi tự nhiên lại với nhau tạo nên hai vòng thành khép kín là Thành ngoại và Thành nội. Dấu tích các đền đài cung điện không còn trên mặt đất, nhưng kết quả khai quật khảo cổ học có thể cho phép hình dung một cấu trúc tổng thể các kinh đô và những nét độc đáo của công trình xây dựng quy mô lớn đầu tiên của quốc gia Đại Cồ Việt. Nhà Đinh sụp đổ, Lê Hoàn được sự ủng hộ của Dương Thái Hậu và triều đình Hoa Lư lên ngôi Hoàng đế, lập ra vương triều Lê (Tiền Lê) và tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược Tống. Sau chiến thắng, Lê Hoàn tập trung ổn định đất nước, tổ chức lại chính quyền, phát triển sản xuất. Quốc gia Đại Cồ Việt đã thực sự có một đế đô tráng lệ, khiến sứ thần nhà Tống là Tống Cảo khi đến Hoa Lư vào năm 990 cảm thấy “Hoa Lư không khác Trường An đời nhà Hán” .
Trong hơn 42 năm (968-1010), kinh đô Hoa Lư đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, tạo điều kiện cho triều Đinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009) củng cố chính quyền trung ương, bảo vệ nền độc lập dân tộc, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất của quân Tống (980-981) và giữ vững nền thống nhất quốc gia, đặt cơ sở cho bước phát triển toàn diện của đất nước.
Nhưng Hoa Lư với địa thế núi non hiểm  trở đã dần dần bộc lộ những hạn chế, không còn phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước trên quy mô lớn, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, mở mang văn hóa. Dưới con mắt của Lý Công Uẩn, người sáng lập vương triều Lý năm 1009, thì “thành Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương” khiến ông “rất đau đớn, không thể không dời”.
Lý Thái Tổ trong Chiếu dời đô khẳng định việc dời đô là việc lớn không thể “theo ý riêng tự tiện chuyển dời”, mà phải “tính kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân”. Vấn đề đặt ra lúc này là dời đô đi đâu?. Lý Thái Tổ chọn thành Đại La với đủ các tiêu chí thủ đô của một quốc gia thống nhất và thịnh đạt “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam, bắc, đông, tây; tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”.   
Tất cả những điều kiện tự nhiên và kết quả phát triển của lịch sử đã tạo dựng những tiền đề cho Đại La đóng vai trò kinh đô của đất nước thời kỳ phục hưng dân tộc. Lý Công Uẩn không chỉ nhận thức sâu sắc tất cả những tiền đề đó, mà điều quan trọng hơn là ông tin tưởng ở sức mạnh của đất nước, ở tương lai phát triển của dân tộc. Quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La của Lý Công Uẩn là kết quả của một quá trình chuẩn bị, trù tính, tìm chọn của cả dân tộc hàng nghìn năm nên trở thành tuyệt đối đúng, đáp ứng được trọn vẹn không chỉ nhu cầu phát triển của đất nước, ý chí của Hoàng đế và vương triều mà còn là nguyện vọng tha thiết của toàn dân.
Thành Thăng Long với biểu tượng Rồng Bay vừa mang khí thế vươn lên mạnh mẽ của dân tộc, vừa chứa đựng ý niệm thiêng liêng về cội nguồn Rồng Tiên và ước mơ về nguồn nước, mưa thuận gió hòa của cư dân văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. 
Thành Thăng Long từ thời Lý đã gồm ba vòng thành, trong đó Cấm Thành là trung tâm chính trị của Vương triều. Phía ngoài, cùng với một số cung điện, chùa tháp là khu vực cư trú, buôn bán, làm ăn của dân chúng gồm các bến chợ, phố phường và cả các thôn trại. La Thành là vòng thành ngoài cùng có chức năng vừa là thành lũy bảo vệ vừa là đê ngăn lũ lụt. Ngay từ khi kiến lập kinh thành Thăng Long, Lý Công Uẩn đã triệt để tận dụng địa thế tự nhiên trong quy hoạch xây dựng nhằm biến những sông, hồ thành những con hào tự nhiên, những đường giao thông thủy thuận tiện và một hệ thống thoát nước liên hoàn, điều tiết môi trường, bảo vệ cảnh quan sinh thái.
Điều hết sức đặc biệt là toàn bộ diện mạo kinh thành Thăng Long mà chúng ta biết hiện nay đều được thiết kế và thi công trong khoảng hai thập kỷ đầu Vương triều Lý. Tiếp sau đó, các Vương triều Lý, Trần đã xây dựng mới nhiều công trình kiến trúc quan trọng khác ở cả trong và ngoài Cấm thành, nhưng trên thực tế những kiến trúc này chỉ bổ sung và hoàn thiện thêm quy mô, cấu trúc kinh thành đã được hoàn chỉnh ngay dưới thời Lý Thái Tổ.
Công việc tạo dựng kinh mới “đủ làm chỗ ở của đế vương” vô cùng gian nan vất vả. Nhà sử học đời Trần Lê Văn Hưu (1230-1322) trách Lý Thái Tổ đã “tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể”. Lời trách ấy gián tiếp xác nhận những cố gắng phi thường và thành công tuyệt diệu của ông và thế hệ ông.
Sau Lê Văn Hưu gần nửa thiên niên kỷ, sử thần Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đã có đủ cơ sở để nhìn nhận và đánh giá đúng đắn tầm vóc của sự kiện định đô Thăng Long: “Lý Thái Tổ lên ngôi, chưa vội làm việc khác, mà trước tiên mưu tính việc định đô đặt đỉnh, xét về sự quyết đoán sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp. Cho nên truyền ngôi hơn 200 năm, đánh giặc Tống, dẹp giặc Chiêm, nước mạnh dân giàu, có thể gọi là đời rất thịnh trị. Các vua đời sau noi theo đều gìn giữ được ngôi vua, chống chọi với Trung Quốc. Lý Thái Tổ có thể nói là một bậc vua biết mưu tính việc lớn đấy!”
Lý Thái Tổ là người sáng lập ra Vương triều Lý (1009-1226) – Vương triều rạng rỡ văn trị, võ công, khai mở và xác lập thời kỳ phát triển toàn diện và rực rỡ nhất của lịch sử Việt Nam. Ông là con người kết tinh của lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, khéo biết đúc kết và kế thừa toàn bộ tri thức, kinh nghiệm của cha ông, vươn tới nhãn quan chính trị rộng lớn và tầm nhìn thiên niên kỷ. Ông là nhà thiết kế, nhà thi công, tác giả đầu tiên, vĩ đại nhất của kinh đô Thăng Long – Kinh đô, Thủ đô của quốc gia Đại Việt, của đất nước Việt Nam nghìn năm qua và mãi mãi về sau./.

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2010

MỘT NGÀY VỚI GIÁO SƯ TRẦN QUỐC VƯỢNG TẠI CÁC LÀNG CHĂM NINH THUẬN




Bút ký của Sakaya


Tại Ninh Thuận vào 26 tháng 4 Dương lịch, nhằm ngày mồng 5 tháng giêng lịch Chăm. Thời điểm này, khí trời Phan Rang nắng nóng, hanh hao. Đây cũng là thời điểm chuyển mùa, thời điểm của người Chăm cầu mưa, cầu đảo. Đây là những ngày trọng đại nhất trong năm tại các palei Chăm (làng Chăm). Họ tổ chức lễ cầu mưa, tống khứ hạn hán – lễ Rija Nưgar. Người Chăm có câu thành ngữ:

Bilan than-uh than-on
Hamit grum mưnhi gah pur, pai

Khi nghe tiếng sấm hướng Đông
Nhân dân hớn hở mới hòng yên thân

…………………………..(Thiên Sanh Cảnh dịch)

Khi tiếng sấm đầu tiên trong năm vang lên, người Chăm chuẩn bị đón mừng cơn mưa đầu mùa. Tùy theo tiếng sấm kêu vang như thế nào, mà người ta đoán được tiết trời năm ấy ra sao.

Cũng như ngày này của mọi năm, khi tôi chuẩn bị về làng đón lễ hội cùng bà con Chăm thì nhận được một tin bất ngờ: Giáo sư Trần Quốc Vượng (kể từ đây xin phép được viết tắt là Gs) đến Phan Rang. Không biết Gs xem ngày tháng như thế nào mà đặt chân đến Phan Rang đúng lúc đất trời đang chuyển mình giao thoa, dân làng đang vui chờ đón cơn mưa đầu năm. Tôi được phân công tháp tùng Gs trong chuyến khảo sát này. Tôi vội vàng đến gặp Gs tại Khách sạn Ninh Thuận vào đầu giờ chiều ngày thứ Năm. Trong lúc tôi vội vã giới thiệu với Gs chương trình Lễ hội làng Chăm, thì Gs liền xua tay và nói: “Trước mắt, cậu cho tôi xem nguồn nước, giếng nước cổ Chăm ở Ninh Thuận đã, còn lễ hội xem sau”.

Lời yêu cầu của Gs làm tôi vừa ngạc nhiên vừa lo lắng. Vì lễ hội chiều nay sẽ bắt đầu vào lúc 3 giờ. Cho nên, nếu đi xem giếng nước cổ thì bỏ lễ hội quan trọng đầu năm của người Chăm ư?

Điều này làm tôi khá lúng túng. Thú thật, ở đây tôi đã tháp tùng nhiều bậc Gs, nhà nghiên cứu về Chăm Pa, kể cả trong lẫn ngoài nước. Nhưng tôi cảm thấy nơi Gs có những điều khác lạ. Nhiều nhà khoa học cứ đến vùng Chăm là hỏi thăm đền tháp, hoặc lễ hội. Chỉ Gs lại đặt nặng sự chú ý đến nước giếng cổ.

Tôi đắn đo suy nghĩ hồi lâu để sắp xếp chương trình. Mặc dù rất khó khăn, nhưng tôi không dám gạt đi yêu cầu của nhà khoa học lớn. Tôi lục tìm trong ký ức hệ thống di tích người Chăm ở Ninh Thuận liên quan đến nguồn nước, giếng nước. Lập tức, tôi giới thiệu với Gs về hai đập nước nổi tiếng của người Chăm là đập Nha Trinh do vua Ppo Klaung Garai xây dựng vào thế kỷ 13, và đập Ma-rên do vua Po Rome xây dựng vào thế kỷ 17; di tích giếng cổ người Chăm ở Hòn Đỏ (Mỹ Tân), và nhóm giếng cổ ở làng Thành Tín. Nghe tôi vừa giới thiệu xong, Gs quyết định chọn điểm khảo sát di tích giếng cổ Chăm ở làng Thành Tín.

Sau khi chọn được địa điểm nghiên cứu, đoàn chúng tôi liền lên xe. Ra khỏi phố Phan Rang cách 5 km về hướng Đông Nam, trước mắt chúng tôi là làng Thành Tín, có tên Chăm là “palei Cwah Patih”, nghĩa là “làng Cát Trắng”. Phía xa, làng hiện ra trên nền những cồn cát gợn sóng do sóng biển bồi tụ từ bao đời nay, rất đẹp. Tùy theo độ chiếu sáng của ánh nắng mặt trời mà dải cồn cát hiện lên màu trắng, màu vàng, màu xám, màu đỏ… trông như một bức tranh với đầy đủ những màu sắc và đường nét. Chính vẻ đẹp này đã tạo cảm xúc cho các nghệ sĩ Chăm, và địa danh này đã đi vào ca khúc nổi tiếng của người Chăm có tên là “Quê em miền cát trắng” (Bhum Adei).



Tôi vừa giới thiệu sơ qua về làng như thế, thì xe vừa đến cổng làng. Khi xe dừng lại ở đầu làng, gần một ngôi thánh đường, thì gặp một cô gái Chăm. Lòng như mở cờ, chúng tôi đành “bắt cóc” cô gái Chăm và nhờ cô dẫn đường đi đến giếng nước cổ của làng.

Cô dẫn đoàn của chúng tôi hướng về dải cồn cát trắng của làng nằm ở hướng Đông. Đi được một đoạn đường dài, chúng tôi hỏi cô gái:

– Giếng nước còn bao xa nữa?
– Giếng nước cổ làng em nằm ở ngay dưới chân dải cồn cát ấy, cô gái trỏ về hướng cồn cát.

Cả đoàn chúng tôi mừng thầm, vì đã gần đến nơi. Gs vừa đi vừa nhặt từng mảnh gốm dưới đất, vừa quan sát chất đất, những cảnh vật, cây trồng xung quanh. Ở đây, đặt biệt trồng nhiều khoai lang. Gs thấy làm lạ, bất chợt hỏi cô gái:
– Cây khoai lang người Chăm gọi là gì? Có phải cây này là cây truyền thống người Chăm không?

Câu hỏi của Gs làm cho cô gái như gió gặp diều. Cô trả lời:
– Cây khoai lang người Chăm gọi là “Phun habei”.

Cô gái nói tiếp:
– Khoai lang không những là cây trồng truyền thống, mà còn là loại đặc sản của làng em.

Rồi cô gái hát một đoạn ca khúc quen thuộc theo lời đề nghị của Gs:

Cwah Patih habei bhong bauh libbung,
Mưyah xa-ai takrư adei tuk ka xa-ai bbơng…

Dịch nghĩa là:

Quê em miền cát trắng
Có khoai lang màu đỏ ngọt bùi
Nếu anh thích thì em luộc cho anh ăn…

Gs thích thú mỉm cười, dáng trầm ngâm…

Lời hát vừa kết thúc thì chúng tôi cũng vừa đến chân dải cồn cát. Ở đây có tất cả 6 cái giếng cổ, được đào thành từng cặp. Giếng hình vuông, mỗi cặp có giếng đực (bingun likei) và giếng cái (bingun kamei). Giếng cái thường bố trí ở phía mặt trời lặn, còn giếng đực ở phía ngược lại. Nhưng hiện nay, chỉ giếng cái được dân làng sử dụng thường xuyên.

Cô gái Chăm giới thiệu tỉ mỉ với chúng tôi chức năng sử dụng từng cái giếng.

Cô kể rằng, giếng cổ này có từ lâu lắm, không biết người Chăm đào từ đời nào. Khi cô lớn lên cô đã thấy giếng này. Ngày xưa mỗi buổi sáng, chiều cô thường đi lấy nước từ giếng này về nhà. Lúc ban đầu khi mới tập đội nước, bà nội cô thường căn dặn, và chỉ cho biết công dụng của giếng đực giếng cái như thế nào. Cô nói:

– Giếng đực chỉ sử dụng lấy nước để cúng thần trong những dịp cúng tế. Dân làng không được sử dụng để lấy nước sinh hoạt hàng ngày, vì sợ làm ô uế nguồn nước. Bởi chỉ có giếng đực thì mới có nước tinh khiết để cúng thần. Còn giếng cái dùng để dân làng sinh hoạt. Cô vừa nói, tay vừa chỉ vào cái giếng nước.

Lúc này, trước mặt chúng tôi là cái giếng hình vuông, có độ sâu khoảng 1,5 m. Giếng được đóng giàn gỗ hình vuông ở 3 mặt (Đông, Tây, Nam), cao hơn mặt đất khoảng 0,5 m, còn một mặt phía Bắc để trống, gọi là miệng giếng (pabah bingun). Miệng giếng này được dẫn thông vào một con mương nhỏ chảy vào cái bàu nước cho dân làng tưới ruộng. Mạch nước chảy ngầm từ cồn cát xuống. Quanh năm suốt tháng, giếng không bao giờ khô hạn. Cô gái Chăm nói như vậy.

Cô kể, giếng cái có nhiều chức năng sử dụng khác nhau: Phần nước đầu nguồn của miệng giếng thì dùng để uống; phần kế tiếp là nước thứ hai dùng để tắm giặt; phần nước thứ ba dùng cho trâu bò uống, và phần nước cuối cùng thì chảy vào ruộng lúa. Hiện nay, giếng cái này vẫn là nguồn nước sinh hoạt và sản xuất chính của làng.

Gs chăm chú nghe cô gái Chăm kể rồi kết luận: “Giếng cổ người Chăm Ninh Thuận là một thủy hệ – một hệ nước có nhiều chức năng sử dụng khác nhau, chứ không phải là một hệ thủy lợi, như ở Gio Linh (Quảng Trị), mặc dù kỹ thuật xây dựng giếng như nhau”.

Gs nói, người Pháp nghiên cứu về Chăm Pa chỉ quan tâm đến các đền tháp, họ không chú ý đến nước giếng cổ. Tôi và đồng nghiệp đã tìm được nhiều di chỉ làng Chăm cổ và giếng nước cổ ở khắp nơi trên dải đất miền Trung, từ Quảng Nam đến Ninh Thuận, Bình Thuận, từ sông Gianh đến cửa Đại. Nhiều tư liệu ghi chép của Ba Tư, Ả Rập từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 14 cho biết, người Chăm đào giếng rất trong, ngọt và không bao giờ cạn nước – ở dưới chân cồn cát ven biển để “xuất khẩu nước lã cho các thương thuyền quốc tế đi vào biển Chăm Pa” lúc bấy giờ.


Những kết luận khoa học của Gs làm cô gái Chăm lấy làm lạ. Đôi mắt cô xoe tròn, đăm chiêu dưới hai hàng mi đen láy. Cô nhìn hướng về dải cồn cát trắng, hướng về biển Đông, như đang cố gắng nghĩ suy gì về người Chăm cổ. Một lát sau, cô quay lại và nói với Gs:

– Người Chăm muốn có nước để cho dân làng uống, làm ruộng, xuất khẩu thì phải làm lễ hàng năm.

Trước những lời nói chất phác, dân dã của cô gái Chăm, Gs lấy làm thích thú. Gs hỏi cô gái:

– Nếu muốn mạch nước giếng chảy quanh năm thì dân làng phải làm như thế nào?

Không đắn đo, cô gái trả lời:
- Phải làm lễ cầu mưa, cầu nước.

Gs hỏi:
- Thế thì dân làng thường tổ chức lễ cầu đảo ở đâu?

Cô gái Chăm chỉ tay về hướng Đông Nam của làng và nói, làng em thường tổ chức lễ cầu Thần Po Nai trên núi Chà Bang kia.

Theo hướng chỉ tay của cô gái về hướng Nam, trước mắt chúng tôi là một ngọn núi Chà Bang đứng sừng sững, trầm mặc, lẻ loi, trải dài gần đến tận bờ biển xa.

***

Tạm biệt cô gái Chăm làng Cát Trắng, chúng tôi lên xe về một làng Chăm khác để khảo sát lễ hội đầu năm – Lễ hội Rija Nưgar – một loại lễ tống khứ hạn hán, cầu mưa cầu đảo, mà cô gái vừa giới thiệu. Đã ra khỏi làng Cát Trắng, nhưng Gs chưa muốn dứt câu chuyện núi Chà Bang với cô gái Chăm kia. Trên xe lúc này không còn cô gái Chăm nữa, nên mình tôi phải chịu những đòn tra hỏi. Gs muốn hiểu về sự tích núi Chà Bang. Tại sao người Chăm lại tổ chức lễ cầu mưa, cầu nước trên núi đó? Lúc này, không còn thì giờ để nói vòng vo, tôi liền kể một mạch dài về những gì liên quan đến núi Chà Bang cho Gs, như là một người cung cấp tư liệu.

Núi Chà Bang (thuộc xã Phước Nam, huyện Ninh Phước) có sự tích liên quan đến câu chuyện tình giữa Po Nai, con gái vua Po Rome (1627 – 1651), là người Chăm, và chàng trai người Raglai tên là Cei Kamau. Chuyện kể rằng, công chúa Po Nai là con gái út của vua Po Rome, có sắc đẹp chim sa cá lặn, nhưng lại kén chồng. Nhưng vì vua Po Rome muốn tạo sự bang giao gần gũi với tộc người anh em láng giềng, nên quyết định gả Po Nai cho chàng trai Raglai. Mặc dù chàng trai Raglai là người tài giỏi, khôi ngô, tuấn tú, nhưng công chúa Po Nai vẫn cương quyết không chịu kết hôn, thế nên công chúa đã rời hoàng cung, bỏ lên núi đi tu. Chàng trai Raglai trong lòng vẫn yêu thương công chúa, nên quyết tâm đi tìm. Qua nhiều tháng trời lội đèo leo núi, song không tìm thấy công chúa đâu cả, chàng trai Raglai tức giận, lấy nỏ thần bắn lên ngọn núi – nơi công chúa trú ẩn. Mũi tên thần bay trúng ngọn núi khiến ngọn núi nứt làm đôi, người Chăm gọi là “talah Cabbang”. Từ sự tích đó, đến nay người Chăm gọi núi đó là “cơk Cabbang”, còn người Việt đọc chệch từ tiếng Chăm ra thành “Chà Bang”.


Để tưởng nhớ đến công chúa Po Nai, người Chăm tạc một bệ thờ Linga bằng đá, cao khoảng 0,8 mét trên ngọn núi này. Linga được chia làm 3 phần, nhưng liền nhau thành một khối. Phần đầu ở phía trên hình tròn, tượng trưng cho thần Siva; phần giữa hình bát giác, tượng trưng cho thần Visnu, và phần dưới cùng hình vuông, tượng trưng cho thần Brahma. Ba vị thần này được người Chăm xem là “tam vị nhất thể” (Trimurti). Linga này có phong cách tương tự như Linga-Yoni ở tháp Hòa Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận), được xếp niên đại vào thế kỷ 9.

Theo sự tích, cũng như bệ thờ, cách thức thờ cúng tượng Linga trên núi Chà Bang ở Ninh Thuận vừa kể, Gs nhận định: kiểu Linga Po Nai và tục thờ thần núi, cầu mưa, cầu nước không chỉ riêng ở núi Chà Bang – Ninh Thuận mà còn có một số nơi như núi Chúa – Phú Yên, ở Côn Đảo nước ta, và ở một số nước khác như Trung Quốc, Thái Lan… Kiểu thờ này gọi là Linga-parvatha.

Tại núi Chà Bang, hàng năm vào tháng giêng (sau lễ hội Rija Nưgar) tính theo lịch Chăm, tức khoảng tháng 4 theo Dương lịch, thì không chỉ làng Thành Tín, mà tất cả các làng đều lên núi Chà Bang để cầu mưa, cầu đảo. Dân làng truyền tụng, Nữ thần Po Nai trên núi Chà Bang rất hiển linh. Sau buổi cầu cúng thần, trời sẽ đổ mưa. Dòng sông đang khô hạn bống trở thành dòng nước chảy xiết. Giếng nước đang khô cạn thì mạch nước lại tuôn trào.

Nghe tôi kể lại câu chuyện như thế, Gs giật mình hỏi:
- Thần Po Nai có thật linh như thế không?

Tôi trả lời:
- Không biết thực hư như thế nào? Dân gian Chăm thêu dệt, linh thiêng hóa đến đâu không rõ. Nhưng trước mắt, chúng ta sắp sẽ chứng kiến sự hiện thân của thần Po Nai tại lễ Rija Nưgar.

Gs có vẻ khá hồi hộp! Phía xa đằng kia là làng Chăm ngói đỏ hiện dần. Tiếng trống gi-năng mở hội đầu năm của lễ Rija Nưgar đâu đó vang lên, thúc giục!

***

Kết thúc câu chuyện tình giữa công chúa Po Nai và chàng trai Raglai trên núi Chà Bang, xe của chúng tôi cũng vừa đến cổng làng Hữu Đức. Đây là một làng đông dân và khá giả ở vùng Chăm Ninh Thuận. Chúng tôi vào làng đúng vào lúc 3 giờ chiều (giờ âm), ngày thứ 5, mồng 5 (ngày lẻ, tức ngày âm, tiếng Chăm là yor), tháng giêng, thượng tuần trăng của lịch Chăm.

Vừa đến đầu làng, chúng tôi đã nghe tiếng trống gi-năng vang lên trong một nhà lễ Rija Nưgar ở một bãi đất trống đầu thôn. Nhà làm lễ (kajang) có mái lợp bằng tấm bạt (trước đây lợp bằng lá tranh), xung quanh được che chắn bằng những tấm liếp đan bằng tre, và chỉ mở một hướng ra vào về hướng Đông – hướng của Mặt trời, hướng của thần linh.

Lễ Rija Nưgar ở đây được tổ chức vào hai ngày, người Chăm thường gọi là “một ngày vào, và một ngày ra” (Tamư di jip tabiak di suk). Ngày vào thứ 5, mồng 5 – ngày lẻ, ngày âm – còn ngày ra thứ 6, mồng 6 – ngày chẵn, ngày dương (yang) – tháng giêng, tính theo lịch Chăm.

Lễ vật dâng cúng, ngoài gà và dê còn có 5 mâm cơm, canh, bánh trái, trầu cau, rượu, trứng. Ngoài ra, trong bàn lễ còn có lễ vật quan trọng là lửa – nước. Lễ vật cũng được người Chăm chia làm hai phần âm và dương, mà họ thường gọi nôm na theo tên lễ vật chính là “ngày vào cúng con gà (thuộc âm) và ngày ra – kết thúc lễ, là cúng con dê (thuộc dương) (Tamư mưnuk tabiak pabaiy).

Thầy cúng lễ Rija Nưgar gồm có thầy Kaing (thầy bóng) mặc áo đỏ múa lễ; và thầy Mưdwơn mặc áo trắng, vỗ trống pa-ra-nưng, hát lễ thánh ca; hai nghệ nhân đánh trống gi-năng, một nghệ nhân thổi kèn sa-ra-nai. Cùng nhiều dân làng phụ lễ.

Nhạc cụ bao gồm: 1 cặp trống gi-năng, trống pa-ra-nưng và 1 kèn sa-ra-nai. Đạo cụ múa bao gồm: 1 cây mía đỏ (tượng trưng cho cây chèo); 1 cây quạt, 1 chiếc khăn và 1 cây roi ngựa. Tất cả đạo cụ, ngoài khăn và quạt được thầy Kaing cầm tay, còn lại là để tại bàn tổ. Tại bàn tổ, là nơi để lễ vật và đạo cụ múa, còn có một cán rìu (tượng trưng cho công cụ lao động).

Diễn tiến chung của lễ Rija Nưgar là thầy Mưdwơn chủ lễ rót ruợu lần lượt mời các vị thần và hát bài thánh ca. Còn thầy Kaing mang lễ vật và múa phụ theo nhịp trống pa-ra-nưng, trống gi-năng, kèn sa-ra-nai. Đối với mỗi vị thần được mời về dự lễ, thầy Kaing đều có một điệu múa riêng cho thần. Chẳng hạn, khi hát về Nữ thần Po Nưgar, thầy Mưdwơn vỗ trống pa-ra-nưng hát bài thánh ca kể về sự tích Po Nưgar, còn thầy Kaing cầm quạt và múa khoan thai quanh bàn tổ.

Khi hát về vị thần Po Klaung Garai và Po Rome (là các vị vua, nhưng đã hoá thân thành các vị thần), thầy Mưdwơn ca ngợi công đức, tài phép của các vị vua đã có công dạy dân làm thủy lợi, đắp đập ngăn sông, cho dân làng cày cấy.


Khi hát về thần Cei Tathun, thầy Mưdwơn vỗ trống hát cuồng nhiệt ca ngợi tính oai phong lẫm liệt của thần: Thần Cei Tathun phi ngựa tiếng vó ngựa dậy non sông / Tướng mạo đẹp trai khôi ngô tuấn tú. Trong lúc thầy Mưdwơn hát thì thầy Kaing cầm roi ngựa múa, nhảy theo nhịp trống và tiếng reo hò của người dự lễ. Thầy Kaing ngây ngất trong điệu múa và nhập đồng. Đến lúc thăng hoa, thầy Kaing cầm roi ngựa múa, nhảy phi vào đạp đống lửa trước rạp lễ, trong tiếng hò reo của mọi người. Năm nào thầy Kaing lên đồng dập tắt được đống lửa, thì năm đó dân tin rằng mưa thuận gió hòa. Vì lửa tượng trưng cho nắng nóng và khô hạn. Dập tắt đống lửa trong lễ Rija Nưgar là tống khứ được cái nắng nóng, khô hạn và đem lại khí trời mát mẻ, mưa thuận gió hòa cho dân làng cày cấy.

Khi hát về thần Po Tang Ahauk (thần Chèo Thuyền), thầy Mưdwơn vỗ trồng hát về sự tích chèo thuyền: thần đang đi thuyền nhuộm màu chàm, lênh đênh trên biển khơi xa…. Thầy Kaing cầm cây mía đỏ múa điệu chèo thuyền như sóng nhấp nhô trên biển cả.

Đến Nữ thần Po Nai trên núi Chà Bang. Đây là vị thần mà Gs đang chú ý. Thầy Mưdwơn hát kể sự tích: Po Nai bỏ nhà đi tu ở núi cao rừng rậm / nàng đi tu ăn lá rừng sống quanh năm / có lúc ngồi buồn một mình / Nàng tắm biển giải khuây. Lúc này, thầy Kaing đóng vai nữ, là hóa thân của công chúa Po Nai, mặc áo bông đỏ, đầu đội khăn màu trắng, tay cầm khay trầu, trên đó có bông điệp và trái cây, múa theo nhịp trống lễ. Thường đến lúc cúng thần Po Nai thì thầy Kaing lên đồng, nói lên nguyện vọng mong ước của cộng đồng đến thần linh, và ngược lại, truyền những lời của thần linh đến dân chúng. Thế nhưng, hôm ấy thầy Kaing đã không lên đồng được.

Đành vậy, chúng tôi rời làng Hữu Đức, về làng Vĩnh Thuận xem sự giáng trần của Nữ thần Po Nai nhập đồng vào thầy bóng ra sao.



Chúng tôi đến nơi, đúng lúc thầy bóng trong lễ Rija Nưgar làng Vĩnh Thuận đang lên đồng.

Trong trạng thái nhập đồng, toàn người thầy run lên. Dân làng lúc này ai cũng hồi hộp, chờ đợi sự phán xét.

Một hồi sau, thầy phán: “Tôi (Nữ thần Po Nai) đã đi xa bao năm, nay mới về lại làng này. Làng này ô uế lắm, phải làm một lễ khác để tẩy uế, vệ sinh làng palei, thì thần mới thường xuyên ghé phù hộ độ trì và cho mưa thuận gió hòa”.

Trong lúc thầy bóng đang phán xét thì dân làng vừa lắng nghe, vừa cầu xin thần linh đừng nổi giận, vui lòng nhận lễ vật Rija mà cho mưa sớm cho dân làng cày cấy. Trong lời khấn vái của dân làng, của thầy lễ, luôn có lời khấn cầu mưa, cầu nước. Đây là chủ đề mà họ quan tâm nhất trong suốt buổi lễ Rija Nưgar.

Sau trạng thái lên đồng của Nữ thần Po Nai thì họ tiếp tục mời các thần linh khác như: thần đất, thần sông, các người đã khuất có công khai hoang lập ấp… Và cuối cùng, kết thúc lễ ngày đầu vào buổi chiều ngày thứ 5 bằng lễ cúng cơm (Pathar Pabah). Đây chỉ mới kết thúc một nửa phần đầu (phần âm) của lễ Rija Nưgar.

Tiếp tục lễ Rija Nưgar là phần nửa còn lại được tiếp tục vào sáng ngày mai thứ 6 mồng 6 – ngày chẵn cúng dê – thuộc về dương. Nội dung phần lễ cúng này tương tự như lễ ngày đầu, chỉ khác là lễ ngày ra có tiễn đưa “hình nhân thế mạng” mà người Chăm gọi là “salih”. Vật này sẽ tống khứ những xấu xa, xui xẻo, nắng nóng khô hạn của dân làng năm cũ vào ngày kết thúc lễ Rija Nưgar. “Hình nhân thế mạng” của năm cũ ra đi thì dân làng sẽ được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu vào năm mới. Nghi thức lễ tiễn đưa (palau) “hình nhân thế mạng” này được thực hiện tại ngã ba đường làng. Lễ Rija Nưgar kết thúc.

Nhìn một cách bao quát, Lễ Rija Nưgar luôn biểu hiện tư duy nhị nguyên của Chăm, tôi tạm kết luận như vậy với giáo sư.

Tôi nói, cũng như giếng nước cổ người Chăm Thành Tín đều có cặp đôi: giếng đực, giếng cái, còn ở Rija Nưgar thì cặp đôi đực – cái biểu hiện trên các mặt như: ngày tổ chức lễ là 2 ngày, có ngày lẻ và ngày chẵn; thần linh cầu cúng cũng như nữ thần (Po Nưgar, Po Nai) và nam thần (Po Rome, Po Klaung Garai); Thầy cúng mặc áo hai màu: màu đỏ (thầy Kaing) và màu trắng (thầy Mưdwơn); lễ vật là con Gà (âm) và con Dê (dương)… Từ đó, Gs kết luận: Có như vậy thì mới mưa thuận gió hòa, con người cây cối, vật nuôi mới sinh sôi nẩy nở, tôm cá đầy khoang, con cháu đầy đàn, mạch nước dòng sông tuôn chảy muôn đời.

Chuyến khảo sát của Gs tại Ninh Thuận kết thúc tại đây. Chúng tôi tạm biệt palei Chăm về lại phố thị Phan Rang trong khí trời nắng nóng, oi bức. Tôi nghĩ, người Chăm đã làm lễ cầu mưa rồi, thế nào đêm nay trời Phan Rang cũng sẽ đổ mưa, xua đi cái nắng nóng ấy.

Trên đường về, Gs bấm đốt ngón tay tính ngày giờ khắc. Ngày mai khoảng 4–5 giờ là giờ Gs xuất hành rời khỏi Phan Rang đi Đà Nẵng. Tôi cũng bấm theo giờ khắc lịch Chăm. So với 4–5 giờ của Gs xuất hành là trùng với 6–7 giờ của lịch Chăm, tức là giờ Sri – thuộc màu trắng, rất tốt (người Chăm tính một ngày có 8 giờ và một đêm có 8 giờ, một giờ Chăm bằng 90 phút). Tôi chúc Gs thuận buồm xuôi gió.

Kỳ lạ thay, tối hôm đó, lúc tôi đang viết đoạn cuối của bài này, vào 4 – 5 giờ sáng thì trời bắt đầu có tiếng sấm nhẹ (than uh than on), tiếng sấm rền vang mang theo tia chớp ở đàng Đông, đàng Tây. Sau đó, trời trút xuống cơn mưa mát rượi. Không biết Gs có nghe và chứng kiến được tiếng sấm và cơn mưa đầu năm của người Chăm không? Tiếng sấm đầu năm đánh thức cả làng Chăm. Nó chính là mốc thời gian báo hiệu trời đất chuyển mình, thời tiết giao thoa giữa năm cũ và năm mới, giữa khô hạn và ẩm mát.

Người Chăm tin rằng, cơn mưa này có mặt là ân huệ của Rija Nưgar. Một số người “có học” thì cho là mê tín dị đoan. Riêng dân miệt vườn, dân miền biển như ở Mỹ Tường, Mỹ Tân, khi thấy người Chăm đội lễ vật đi lễ Rija Nưgar thì mừng lắm. Bản thân tôi, dù chưa tin lắm, nhưng không dám gạt bỏ những yếu tố tâm linh, niềm tin của ông cha tôi đã trở thành tín ngưỡng và ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ. Là người mới tập tò nghiên cứu, với kiến thức khoa học bé nhỏ của mình, tôi mạo muội lý giải rằng: Rija Nưgar chính là mốc định một chu kỳ thời tiết hàng năm của người Chăm. Đó chính là nhịp điệu sinh học, là chu kỳ thời tiết được lặp đi lặp lại hàng năm. Do vậy, cứ đúng ngày lễ Rija Nưgar là hết một chu kỳ thời tiết một năm, trời Phan Rang sẽ đổ một cơn mưa nhẹ.

Ở đây, mốc tính thời gian và chu kỳ thời tiết không quan trọng, mà quan trọng hơn là kiến thức thiên văn, về lịch pháp, về nhịp điệu vũ trụ, để người Chăm định ra ngày tháng cho đúng chu kỳ thời tiết. Có như vậy, họ mới tổ chức lễ Rija Nưgar như một mốc báo hiệu thời gian cho dân làng một cách ổn định và nhất quán. Đây cũng là một điều Gs khá thắc mắc.

Ai có thấu hiểu được dải đất miền Trung khô hạn, nắng nóng như thế nào, thì mới thấu hiểu được cái khát khao, cái nhu cầu về nước, về mưa trong lễ Rija Nưgar của người Chăm. Chính cái khát khao này đã thúc đẩy người Chăm đi tìm mạch nước, nguồn nước và đã nẩy sinh ra ở họ kỹ thuật lấy nước, giữ nước như đào giếng, đắp đập ngăn sông, cũng như cách xử lý nước, sử dụng nước, tiết kiệm nước trên các loại giếng cổ Chăm và các đập tưới tiêu trên cánh đồng miền Trung. Đến đây, chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng, chuyến khảo sát của Gs về di tích giếng nước cổ, nghi thức cầu nước, cầu mưa và lễ hội đầu năm Rija Nưgar của người Chăm – là một chuỗi vấn đề khoa học nhằm đi tìm một yếu tố “nước” của người Chăm trên dải đất miền Trung này.

Một ngày đi qua Ninh Thuận đã để cho Gs nhiều điều trăn trở về tri thức dân gian, kỹ thuật đào giếng, tìm mạch nước, đắp đập ngăn sông, lịch pháp… và cả một nền văn hóa phát triển rực rỡ, nhưng hiện nay đã thất truyền. Lòng đất nơi đây vẫn còn chứa nhiều bí ẩn chưa được khám phá. Gs nói như vậy trong lời chia tay với đồng chí Giám đốc Sở Văn hoá-Thông tin và Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận. Gs hẹn quay lại vào một dịp khác. Tôi hy vọng như vậy, và cầu cho Gs khám phá ra nhiều điều mới lạ, từ đó mở ra nhiều điều bí ẩn trong lòng đất Ninh Thuận mến yêu này.

http://chamstudies.wordpress.com/2010/06/24/219/





Được đăng bởi DzungLam vào lúc 01:38
Nhãn: ARCHAEOLOGICAL STORY/Cau chuyen Khao co

PHONG TRÀO TẨY CHAY HOA KIỀU Ở VIỆT NAM NĂM 1919 (qua nguồn tư liệu báo chí đầu thế kỷ 20)*

                                                                                                          Đặng Thị Vân Chi * Đặt vấn đề T...