Thứ Hai, 19 tháng 9, 2011

BENEDICT ANDERSON: DÂN TỘC - NHỮNG CỘNG ĐỒNG TƯỞNG TƯỢNG


Euan Hague, PGS Địa lý, ĐH DePaul Chicago, USA,
 (chương 1 (trang 16-21) tập sách do Phil Hubbard, Rob Kitchin và Gil Valentine biên tập 2005, [Các nhà tư tưởng hàng đầu về không gian và nơi chốn] Key thinkers on space and place, Sage xuất bản- Cám ơn Lê Thanh Hải đã giới thiệu tài liệu và góp ý cho bản dịch)


Đặng Thị Vân Chi dịch 
( Do trình độ tiếng Anh có hạn, rất mong nhận được sự góp ý để bản dịch tốt hơn)
Bối cảnh lý thuyết và tiểu sử chi tiết
        Benedict Anderson là tác giả của một trong những khái niệm quan trọng nhất về địa chính trị, về các dân tộc “những cộng đồng tưởng tượng". Ông cũng là hội viên của hội Guggenheim và là thành viên của Học viện Mỹ thuật và Khoa học M.Anderson sinh ra tại Côn Minh, Trung Quốc vào năm 1936. Ông là anh trai của nhà lý luận chính trị Perry Anderson và một công dân Ai Len, cha ông là một quan chức Hải quan của Hoàng gia, ông đã lớn lên ở California và Ireland trước khi vào Đại học Cambridge. Ông đã học tập một thời gian ngắn tại đâydưới sự hướng dẫn của Eric Hobsbawm,vào năm 1957 Anderson đã tốt nghiệp về nghệ thuật cổ điển
    Ông đến Đại học Cornell vào năm1958 để theo học chương trình tiến sĩ, nghiên cứu về Indonexia. Tại Cornellông chịu ảnh hưởng của George Kahin, John Echols và Claire Holt (Anderson,1999).
    Năm 1965, nhà lãnh đạo quân sự Suharto của Indonesia đã phá vỡ một âm mưu đảo chính do các binh sĩ cộng sản chủ mưu, thanh trừng quân đội, và giết chết hàng trăm ngàn thường dân. Cùng làm việc với hai sinh viên tốt nghiệp khác, Anderson phân tích lời giải thích của Suharto về các sự kiện, đặt câu hỏi về tính trung thực của chúng. 
     Đánh giá của ông và các cộng sự đã lọt vào tay quân đội Indonesia, những người đã mời Anderson đến nước này vào năm 1967 và năm1968 để thuyết phục ông về những sai sót trong chuyên khảo của ông mà sau đó nó được biết đến với tên gọi "tài liệu Cornell". Thất bại trong việc thuyết phục ôngchế độ Indonesia kết tội Anderson.Tiếp theo sự công bố chính thức về các cáo buộc ban đầu (Anderson et al 1971), các nhà chức trách Indonesia đã từ chối đơn xin thị thực của Anderson, cấm ông đến Indonesia trong suốt thời gian tồn tại của chế độ Suharto. Anderson chỉ được phép quay lại Indonesia vào năm 1999, sau cái chết của nhà độc tài.
    Anderson đã hoàn thành luận án tiến sĩ về đề tài: "Cách mạng Pemuda: Chính trị Indonesia,1945-1946vào năm 1967 và giảng dạy trong khoa Chính phủ tại Đại học Cornell cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2002, ông cũng là biên tập viên của tạp chí liên ngành Indonesia từ năm 1966 đến 1984. Anderson đã nghiên cứu nhièu chủ đề đa dạng như Chính phủ Indonesia, chính trị và quan hệ quốc tế(1964),quyền con người (ví dụ như 1976), và vai trò của nó ở Đông Timor (1980).
     Là một chuyên gia về Đông Nam Á, các cuộc xung đột quân sự giữa Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc vào cuối những năm 1970 đã kích thích ông phân tích tầm quan trọng và sức hấp dẫn chính trị, đối với nền chính trị của chủ nghĩa dân tộc. Kết quả là cuốn“cộng đồng tưởng tượng” - Những ý nghĩ về nguồn gốc và sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc" được xuất bản 2 lần (1983,1991), trong đó, Anderson đã đề xuất lý thuyết về "các cộng đồng tưởng tượng".Chủ yếu tiếp cận về mặt lý thuyết, Anderson cho rằng, hầu hết đã bỏ qua:
       "Chủ nghĩa dân tộc, chỉ đơn thuần là chấp nhận nó như: Quốc gia, quốc tịch, chủ nghĩa dân  tộc -  tất cả đã chứng tỏ để xác định là vô cùng khó khăn, chứ chưa nói đến việc phân tích. Ngược lại ảnh hưởng to lớn  chủ nghĩa dân tộc đã tác động đến thế giới hiện đại, giả thuyết xác đáng về nó rõ ràng là còn nhỏ nhoi."
     Đặc biệt sai lầm trong lĩnh vực này là chủ nghĩa Mác, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mac và chủ nghĩa dân tộc là chủ đề của cuộc tranh luận đánh giá lại Cánh tả mới trong năm 1970 (ví dụ: Lo¨wy,1976; Debray,1977).Trong môi trường này,Anderson (1991:3,nhấn mạnh) lập luận học thuyết Mác-xít đã không bỏ qua chủ nghĩa dân tộc, đúng hơn,"chủ nghĩa dân tộc đã chứng tỏ một sự bất thường khó chịu cho lý thuyết Mác-xít và, chính vì lý do đó, phần lớn bị bỏ qua, hơn là đối mặt với nó". Cộng đồng tưởng tượng là một nỗ lực để tiến hành hoà giải các lý thuyết của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa dân tộc và đối phó với những gì Anderson vạch ra ​​như một bối cảnh chênh lệch cho việc đánh giá về dân tộc, cụ thể là việc gần như chỉ tập trung vào châu Âu đã gây phương hại đến việc xem xét những người thực dân tiên phong” * ở Nam Mỹ về chính trị dân tộc hiện đại. Sự bóp méo này, Anderson tiếp tục xác nhận cả ở bên trong và bên ngoài học viện. Từ những nghiên cứu trường hợp về chủ nghĩa thực dân ở Châu Mỹ La Tinh và Indonesia, Anderson (1991: 6) đề xuất định nghĩa sau đây về dân tộc: nó là một cộng đồng chính trị tưởng tượng - và vốn dĩ tưởng tượng cả về giới hạn lẫn chủ quyền '.

SỰ  ĐÓNG GÓP VỀ TÍNH KHÔNG GIAN
    Khái niệm của Anderson về dân tộc là “cộng đồng 'tưởng tượng” đã trở thành tiêu chuẩn trong những  cuốn sách đã xem xét lại tư tưởng địa lý (ví dụ như Massey  Jess, năm 1995; Crang năm 1998Cloke et al, 2001). Luận điểm về một dân tộc là "tưởng tượng không có nghĩa là nói dân tộc là sai, không có thực hoặc được phân biệt với 'cộng đồng thật' (khó mà tưởng tượng). Đúng hơn Anderson đã đề nghị rằng một quốc gia được xây dựng từ các quá trình phổ biến thông qua đó người dân cùngchia sẻ một quốc tịch chung
        "Điều này là tượng trưng vì các thành viên của quốc gia thậm chí cả những thành viên nhỏ nhất cũng sẽ không bao giờ biết hầu hết các thành viên đồng bào của họ, đã gặp gỡ họ, hoặc thậm chí chỉ là nghe nói về họ, nhưng trong tâm trí của mỗi cuộc đời đều có hình ảnh về sự hiệp thông giữa họ." (Anderson, 1991: 6; nhấn mạnh)
      Sự hiểu biết này cả về khuôn mẫu  việc định dạng khuôn mẫu bởi các tổ chức chính trị và văn hóa như mọi người tưởng tượng "họ chia sẻ niềm tin chung, thái độ và nhận thức về một cộng đồng quốc gia dân tộc chung, có ý kiến ​​tương tự những tình cảm riêng của họ. Thứ hai:
     "Dân tộc được tưởng tượng như bị giới hạn bởi  thậm chí cả phần lớn nhất trong số họ, có lẽ bao gồm một tỷ người dân đang sinh sốnghữu hạn, đàn hồivượt khỏi ranh giới, nằm ngoài quốc gia khác. (Anderson, 1991: 7nhấn mạnh )
     Để có một dân tộc có nghĩa là ở đó phải có một dân tộc khác, dựa vào đó việc tự định nghĩa có thể đã diễn ra. Anderson, do đó, lập luận cho việc xây dựng xã hội của các quốc gia như những thực thể chính trị có một không gian giới hạn và số nhân khẩu nhất định, chứ không phải là thực thể hữu cơ, vĩnh cửu. Hơn nữa,
     " tưởng tượng" về việc là có chủ quyền bởi vì khái niệm này được sinh ra trong một thời đạitrong đó tư tưởng Khai sáng và Cách mạng đã phá hủy tính hợp pháp của các lĩnh vực như Thiên Chúa thụ phong linh mục, thứ bậc các triều đại... Các dân tộc mơ ước về tự do... tiêu chuẩn đánh giá và biểu tượng về sự tự do này là một nhà nước có chủ quyền." (Anderson, 1991: 7, nhấn mạnh )
      Anderson lập luận rằng khái niệm về dân tộc phát triển vào cuối thế kỷ mười tám như một cấu trúc xã hội để thay thế các trật tự quân chủ hay tôn giáo trước đây. Theo cách này, dân tộc là một cách hiểu mới về khái niệm quyền cai trị và chủ quyền quốc gia. Quyền cai trị này sẽ được giới hạn bởi số lượng dân số xác định và lãnh thổ nhà nước, tên của quốc gia, khả năng thực thi quyền lực.
     "Cuối cùng, nó được tưởng tượng như một cộng đồng, bởi vì, không phân biệt một thực tế bất bình đẳng và bị bóc lột có thể chiếm ưu thế trong mỗi quốc gia, dân tộc luôn luôn được quan niệm như một tình đồng chí bình đẳng và sâu sắc. Cuối cùng, đó là tình huynh đệ này làm cho nó có thể, trong hơn hai thế kỷ qua, hàng triệu người dân, không quá nhiều như vậy để giết, vì ý chí sẵn sàng chết bởi tưởng tượng được giới hạn như vậy". (Anderson,1991: 7, nhấn mạnh )
    Các quốc gia nắm giữ
nhiều quyền lực hơn sự hình dung, Anderson tuyên bố rằng các cuộc kêu gọi tinh thần yêu nước với mục tiêu được hiểu là nghĩa vụ của tất cả các cư dân quốc gia. Hơn nữa, trong chiến tranh mọi công dân quốc gia đều bình đẳng và ranh giới giữa các tầng lớp trở nên mờ nhạt trong cuộc đấu tranh chung cho sự vĩ đại và sự sống còn của dân tộc.
     Khía cạnh quan trọng thứ hai của Anderson về sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc là những điều mà ông xác định như là vai trò của "những người thực dân tiên phong. Trong cả hai miền Bắc và Nam Mỹ, những người đã chiến đấu cho độc lập dân tộc trong các thế kỷ mười tám và mười chín có cùng tổ tiên, ngôn ngữ và truyền thống với những người có quyền lực chiếm thuộc địa mà họ phản đối. Anderson (1991: 50) lập luận những cộng đồng thuộc địa” đã phát triển chính trị dân tộc trước châu Âu, vì là thuộc địa, họ chủ yếu tự quản trị các đơn vị lãnh thổ. Vì vậy cư dân hình thành thuộc về một cộng đồng chung và một cộng đồng có chủ quyền tiềm ẩn một niềm tin được tăng cường từ tin tức từ các tỉnh, các bài báo đề cao cuộc tranh luận về mối quan hệ chính trị và hành chính liên lục địa. Anderson đầu tư nhiều vào luận án của mình về “chủ nghĩa tư bản in ấn” Phác thảo về Erich Auerbach và Walter Benjamin ", Anderson cho rằng các tiêu chuẩn về lịch biểu dân tộc, đồng hồ và ngôn ngữ được thể hiện trong cuốn sách và trong việc xuất bản các tờ báo hàng ngày. Điều này đã tạo ra cùng một một cảm giác trải nghiệm dân tộc cho mọi người làm họ trở nên nhận thức được về các sự kiện xảy ra trong quốc gia riêng của họ và các quốc gia khác ở bên ngoài.
     Báo chí 'có thể làm phát triển nhanh chóng số lượng người suy nghĩ về bản thân họ và mối quan hệ giữa bản thân họ với những người khác trong cách thức mới một cách sâu sắc (Anderson, 1991: 36). Sự xuất hiện riêng lẻ đã được gắn kết cùng với nhau như kinh nghiệm dân tộc như mọi người cảm thấy rằng tất cả mọi người đang đọc cùng một điều  đã truy cập các thông tin một cách bình đẳng 
           "Sự hội tụ của chủ nghĩa tư bản và công nghệ in ấn, sự đa dạng tai hại của ngôn ngữ loài người đã tạo ra các khả năng về một hình thức mới của cộng đồng tưởng tượng, trong hình thái cơ bản của nó đã thiết lập thời kỳ của các dân tộc hiện đại. Tiềm năng kéo dài của các cộng đồng này vốn dĩ bị hạn chế, và tại cùng một thời gian, dù không có sự phiền toái nhưng hầu hết các mối quan hệ ngẫu nhiên đang tồn tại một ranh giới chính trị (trong đó là toàn bộ các nhãn hiệu high-water về sự mở rộng triều đại). (Anderson, 1991:46)
     Tác động trên toàn thế giới của "những cộng đồng tưởng tượng" qua các ngành học hàn lâm đã dẫn đến việc sửa chữa và tái bản vào năm 1991. Trong lần tái bản này Anderson lưu ý rằng ông đã '[trở nên] không dễ nắm bắt nhận thức về những gì tôi đã tin là một đóng góp mới có ý nghĩa để suy nghĩ về chủ nghĩa dân tộc- đang thay đổi sự hiểu biết về thời gian- thiếu một cách hiển nhiên sự phối hợp cần thiết: sự hiểu biết đang thay đổi về không gian(1991: xiii-xiv). Bằng cách sử dụng ví dụ Đông Nam Á, Anderson sửa chữa thiếu sót này bằng cách bao gồm cả chương giải quyết vấn đề vai trò của thống kê dân số quốc gia, bảo tàng, công trình kỷ niệm quốc gia, tiểu sử và bản đồ. Rút ra từ một luận án tiến sĩ năm 1988 được thực hiện bởi Thongchai Winichakul về Siam thế kỷ thứ mười chín/Thái Lan, Anderson (1991: xiv) lập luận rằng bản đồ đóng góp vào” biểu trưng hóa không gian chính trị và vô số bản sao của chúng làm quen với những con người cùng những giới hạn về chủ quyền quốc gia và cộng đồng.
     Sau khi kiểm tra truyền thông đại chúng với luận án của mình về chủ nghĩa tư bản in ấn, Anderson  chuyển sang các di sản của sự di cư:
          Hai yếu tố quan trọng nhất tạo ra chủ nghĩa dân tộc và sắc tộc, cả hai liên quan chặt chẽ đến sự gia tăng của chủ nghĩa tư bản. Nó có thể được mô tả sơ lược như truyền thông đại chúng và di cư hàng loạt. (Anderson,1992: 7) 
      Lập luận rằng phong trào dân tộc đã/ đang thường được khởi xướng bởi những người xa xứ, lưu ý một lần nữa "những người thực dân tiên phong" của châu Mỹ  Latin  và các khoản đóng góp tài chính của đảng Cộng hòa Ailen cho quân đội và dân tộc, phe phái dân tộc trong các cuộc chiến tranh Balkan đầu những năm 1990 là từ nước ngoài, Anderson đánh giá:
          Cũng có thể thấy rằng chúng ta đang phải đối mặt tại đây một loại hình mới của chủ nghĩa dân tộc:một loại "dân tộc từ xa"  lẽ nên gọi là "anh ta" [fn' anh ta 'bởi vì loại chính trị này dường như thu hút nam giới nhiều hơn nữ giới.] vì về mặt kỹ thuật, trong khi một công dân của quốc gia mà ở quốc gia đó anh ta sống một cách thoải mái, nhưng cái  anh ta có thể cảm thấy ít nhiều dính líu, thấy một chút hấp dẫn là chơi trò bản sắc chính trị bằng cách tham gia (thông qua công việc tuyên truyền, tiền bạc, vũ khí, bất kỳ cách nào, ngoại trừ  quyền biểu quyết) vào các cuộc xung đột Heimat tưởng tượng của mình – thì bây giờ chỉ là thời gian dành cho việc chuyển bản fax đi" (Anderson, 1992: 13)
      Được dịch sang hàng chục ngôn ngữ khác nhau, công trình của ông được các học giả trích dẫn đều đặn nhất về chủ đề này, Anderson đã xuất hiện trên truyền hình, giải quyết vấn đề của các ủy ban của Liên Hợp Quốc và Quốc hội Hoa Kỳ về Indonesia và Đông Timor, và nhấn mạnh vấn đề về vi phạm nhân quyền ở Đông Nam Á (ví dụ như Anderson, 1976, 1980). Ông là một trong những học giả có ảnh hưởng nhất trong thế hệ của ông. Mặc dù không phải là một nhà địa lý được đào tạo bài bản hoặc hành nghề trong lĩnh vực này, nhưng các vấn đề lãnh thổ, không gian và địa điểm, và những lời chỉ trích của ông về chính trị dân tộc, đã dẫn đến việc công trình của Anderson được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về địa lý.

Tiến bộ chủ yếu và những tranh cãi

     "Các cộng đồng tưởng tượng" ít được 
các nhà địa lý chú ý khi mới xuất bản. Không được giới thiệu trên hầu hết các tạp chí địa lý lớn như Biên niên sử của Hiệp hội địa lý Mỹ, khái niệm của Anderson đi vào cuộc tranh luận địa lý thông qua tác động của chúng trên các nghiên cứu liên ngành về chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, việc tham gia vào các cuộc tranh luận đó được đặc trưng bởi các bình luận mà các "cộng đồng tưởng tượng" của Anderson được trích dẫn theo đó. Thật vậy, Spencer  Wollma (2002: 37) tuyên bố rằng việc trích dẫn đều đặn các bài viết về chủ nghĩa dân tộc về các cộng đồng tưởng tượng  Anderson khái niệm hóa "đã trở thành một trong các ấn bản phổ biến nhất 'trong số các tài liệu, kết quả  cho thấy rằng, trong một số trường hợp, việc trích dẫn đó đã thay thế cho việc phân tích". Các nhà địa lý không nằm ngoài số này (xem, trong đó, Jackson  Penrose, 1993; Smith  Jackson, 1999).
     Trong một thời gian dài đánh giá các khái niệm của Anderson về mặt địa lý dường như ngày càng ít điVí dụ, Blaut (1987) không đánh giá công trình của Anderson trong bài giới thiệu của ống về lý thuyết Mác-xít và chủ nghĩa dân tộc (1991: 226)" đất nước tưởng tượng" của Short chỉ đơn giản đề nghị đọc “Các cộng đồng tưởng tượng của Anderson để tham khảoCó thể thấy rằng việc sử dụng bền vững nhất đến từ Radcliffe  Westwood (19962), những người khi xem xét "một cộng đồng tưởng tượng có tính dân tộc đã được tạo ra, duy trì  đứt gãy như thế nào" ở EcuadorHọ cho rằng hình dung về mặt địa lý của Anderson"... cho phép ông liên kết các chủ đề, không gian, di động  các quốc gianhưng lại bình luận rằng ông đã thất bại hoàn toàn trong việc công nhận hoặc phát triển ý nghĩa này trong công việc của mình (Radcliffe  Westwood, 1996:118)
     Quan trọng là các học giả hậu thuộc địa đã nghi ngờ luận cứ của Anderso, Edward Said (1993) lại cho rằng Anderson đã quá thẳng thắn trong lời giải thích của ông rằng các cơ cấu chính trị và các tổ chức thay đổi từ các triều đại, thông qua các ảnh hưởng được tiêu chuẩn hóa của chủ nghĩa tư bản in ấn tới các quốc gia có chủ quyền (xem McClintock, năm1995). Người phê bình mạnh mẽ nhất  Partha Chatterjee (1993) lại cho rằng sự tưởng tượng về các cộng đồng chính trị đã bị giới hạn bởi chủ nghĩa thực dân châu Âu. Đã có các hình thức thể chế dân tộc đặc biệt áp đặt lên họ như là các thuộc địa. Sau khi giành được độc lập các khu vực này đã không có lựa chọn nào khác ngoài theo con đường châu Âu, với các cường quốc phương Tây đã sẵn sàng ngăn chặn bất cứ những lệch lạc nào có vẻ như nguy hiểm. Ngay cả trí tưởng tượng của chúng tôi Chatterjee", khẳng định (1993:5),"vẫn phải nhớ mãi về sự xâm chiếm thuộc địa. "Chủ nghĩa Dân tộc và các quốc gia", Chatterjee lập luận, vẫn vận hành chỉ trong giới hạn công thức được hình thành ở châu Âu, và do đó chúng chỉ có thể được khái niệm hóa trong sự gò bó của châu Âu. Chủ nghĩa dân tộc chống thực dân như vậy là mẫu điển hình của việc chống chủ nghĩa thực dân bằng cách sử dụng các tham số dân tộc như những kẻ thực dân. Sự phân biệt có thể không được thực hiện thông qua việc khái niệm hóa chính trị hay kinh tế vì sự thống trị châu Âu trong những địa điểm này và do đó các giới hạn về chủ quyền và lãnh thổ của thuộc địa đã hoàn toàn được tưởng tượng radành cho các cuộc xâm chiếm của những kẻ thực dân. Do vậy, chủ nghĩa dân tộc chống thực dân chỉ có thể tưởng tượng thông qua thực tiễn và quá trình văn hóa. Ở đây một lần nữa Chatterjee thách thức Anderson, khẳng định rằng mặc dù các quá trình của chủ nghĩa tư bản in ấn rất quan trọng, công thức của Anderson là tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ, thời gian và phạm vi lãnh thổ là quá đơn giản để áp đặt quan hệ quyền lực đa dạng, đa ngôn ngữ và không đối xứng của tình hình thuộc địa. 
     Một bài phê bình lớn thứ hai về cộng đồng tưởng tượng xuất phát từ một quan điểm nữ quyền. Với việc tập trung vào "kinh nghiệm của tình huynh đệ “các thành viên của một quốc gia (Anderson, 1991: 7), các nhân vật chính trong quan niệm của Anderson về chủ nghĩa dân tộc thường được giả định là nam giới. Mayer (2000: 6) lập luận rằng Anderson đã hình dung ra một dự án dị nam tính... tưởng tượng như là một tình anh em "bỏ qua giới tính, tầng lớp và cấu trúcchủng tộc bên trong và giữa các cộng đồng quốc gia; và McDowell (1999:195)cho thấy rằng mặc dù có vẻ như trung lập,"tình đồng chí rất bình đẳng...mang đến cho nó ý nghĩa của đoàn kết nam tính". Sau đó, Mc Clintock (1995: 353) than thở rằng "khảo sát về giới đối với sự tưởng tượng về dân tộc rõ ràng là còn ít ỏi".
     Thách thức thứ ba đến từ Don Mitchell, người lập luận rằng cũng như các cộng đồng tưởng tượng,  phải chú ý đến:
       Thực hành và tập dượt về quyền lực thông qua các khế ước được ban hành và mô phỏng. Những câu hỏi đặt ra là Ai định nghĩa dân tộc? Dân tộc được định nghĩa như thế nào? Định nghĩa đó được mô phỏng và tranh cãi như thế nào?, và điều quan trọng là các quốc gia đã phát triển và thay đổi theo thời gian như thế nào?.. Vấn đề không phải là sự tưởng tượng chung hiện hữu, mà sự tưởng tượng chung là giả mạo. (Mitchell, 2000: 269, nhấn mạnh)

     Đề xuất của Anderson, do đó, bị hạn chế bởi sự chật hẹp của nó. Vấn đề là một dân tộc là một cộng đồng tưởng tượng là gì? Vấn đề phải được cho thấy công việc cần thiết để tạo ra và duy trì sự tưởng tượng, điều này ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân như thế nào? và chính quyền buộc các cộng đồng quốc gia được tưởng tượng định dạng các hành vi vượt qua thời gian và không gian như thế nào?.
      Có nhiều điều đáng khen ngợi trong khái niệm về các cộng đồng tưởng tượng, nhưng cần thiết phải khảo sát các mối quan hệ quyền lực vốn có trong các quá trình mô tả của Anderson và về các tác động vật chất, cho dù được dựa trên giới tính, chủng tộc, dân tộc, giai cấp, tình dục hay khía cạnh khác của bản sắc cá nhân. Công trình gần đây đã bắt đầu giải quyết những thách thức như vậy. Angela Martin (1997: 90) cho rằng mặc dù "trí thức" có được sức mạnh để" tưởng tượng "cộng đồng dân tộc hoặc quốc gia, kích thước vật chất hay kinh tế chính trị, chủ nghĩa dân tộc và dân tộc đã bị bỏ qua. Đánh giá của cô ấy về chủ nghĩa dân tộc Ailen cuối thế kỷ mười chín lập luận về một cách tiếp cận cụ thể cho dân tộc” để thẩm định vai trò của giới được xây dựng cả trong trí tưởng tượng của dân tộc  Ailen như thế nào và cả trong việc họ đã bị hạn chế hành vi trong cuộc sống hàng ngày như thế nào? (Martin, 1997: 91).Đổi lại, (1999: 538) nghiên cứu của Steven Hoelschler về việc xây dựng một cộng đồng di sản của Thụy Sĩ ở New Glarus, Wisconsin, viện dẫn Anderson để giải thích rằng "hình thức tưởng tượng" đặc biệt  được sử dụng bởi giới tinh hoa để tạo ra vị trí và bản sắc cộng đồng, và kiểm tra sự tưởng tượng của giới tinh hoa này được tranh cãi bởi các các nhóm không thuộc giới tinh hoa như thế nào. Vì vậy, các nhà địa lý đang chuyển ra ngoài luận án của Anderson để hiểu cả về cộng đồng hữu hình và cộng đồng tưởng tượng của các dân tộc chủ nghĩa dân tộc.
ANDERSON’S MAJOR WORKS
Anderson, B., McVey, R. T. and Bunnell, F. P. (1971) A Preliminary Analysis of the October 1, 1965 Coup in Indonesia. Ithaca:
Cornell Modern Indonesia Project, Publication No. 52.
Anderson, B. (1972) Java in a Time of Revolution. Ithaca: Cornell University Press.
Anderson, B. (1983) Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism. London: Verso.
Anderson, B. (1990) Language and Power: Exploring Political Cultures in Indonesia. Ithaca: Cornell University Press.
Anderson, B. (1991) Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism (revised and enlarged edition). London: Verso.
Anderson, B. (1998) The Spectre of Comparisons: Nationalism, Southeast Asia and The World. London: Verso.
Secondary Sources and References
Anderson, B. (1964) ‘Indonesia and Malaysia’, New Left Review 28: 4–32.
Anderson, B. (1967) The Pemuda Revolution: Indonesian Politics, 1945–1946, Unpublished PhD dissertation. Ithaca, Cornell University.
Anderson, B. (1976) ‘Prepared testimony on human rights in Indonesia’,in Human Rights in Indonesia and the Philippines. Washington, DC: U.S. Government Printing Office, pp. 72–80.
Anderson, B. (1980) ‘Prepared testimony on human rights in Indonesia and East Timor’,in Human Rights in Asia: Noncommunist Countries. Washington, DC: U.S. Government Printing Office, pp. 231–262 and 275–277.
Anderson, B. (1992) ‘The new world disorder’, New Left Review 193: 3–13.
Anderson, B. (1999) ‘The spectre of comparisons’, Cornell University College of Arts and Sciences Newsletter 20 (2); online:
http://www.arts.cornell.edu/newsletr/ spring99/spectre.htm (accessed 2 October 2002).
Blaut, J. M. (1987) The National Question: Decolonising The Theory of Nationalism. London: Zed Books.
Chatterjee, P. (1993) The Nation and its Fragments: Colonial and Postcolonial Histories. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Cloke, P., Crang, P. and Goodwin, M. (eds) (2001) Introducing Human Geographies. London: Arnold.
Crang, M. (1998) Cultural Geography. London: Routledge.
Debray, R. (1977) ‘Marxism and the national question’, New Left Review 105: 25–41.
Hoelscher, S. (1999) ‘From sedition to patriotism: performance, place, and the reinterpretation of American ethnic identity’, Journal of Historical Geography 25 (4): 534–558.
Jackson, P. and Penrose, J. (1993) ‘Introduction: placing ‘‘race’’ and nation’, in P. Jackson and J. Penrose (eds) Constructions of Race, Place and Nation. Minneapolis: University of Minnesota Press, pp. 1–23.
Lo ¨wy, M. (1976) ‘Marxists and the national question’, New Left Review 96: 81–100.
Martin, A. K. (1997) ‘The practice of identity and an Irish sense of place’, Gender, Place and Culture 4: 89–113.
Massey, D. and Jess, P. (eds) (1995) A Place in the World? New York: Oxford University Press.
Mayer, T. (2000) ‘Gender ironies of nationalism: Setting the stage’, in T. Mayer (ed.) Gender Ironies of Nationalism: Sexing The Nation. London: Routledge, pp. 1–22.
McClintock, A. (1995) Imperial Leather: Race, Gender and Sexuality in the Colonial Contest. London: Routledge.
McDowell, L. (1999) Gender, Identity and Place: Introducing Feminist Geographies. Minneapolis: University of Minnesota Press.
Mitchell, D. (2000) Cultural Geography: A Critical Introduction. Oxford: Blackwell.
Radcliffe, S. and Westwood, S. (1996) Remaking the Nation: Place, Identity and Politics in Latin America. London: Routledge.
Said, E. W. (1993) Culture and Imperialism. New York: Vintage.
Short, J. R. (1991) Imagined Country: Society, Culture and Environment. London: Routledge.
Smith, G. and Jackson, P. (1999) ‘Narrating the nation – the ‘‘imagined community’’ of Ukranians in Bradford’, Journal of Historical Geography 25 (3): 367–387.
Spencer, P. and Wollman, H. (2002) Nationalism: A Critical Introduction. Sage: London.
* " CREOLE PIONEERS " tôi dịch cụm từ này là  "những người thực dân tiên phong" dựa theo ghi chú của tác giả giải thích đó là những người Bồ đào nha sinh ra ở thuộc địa ( những vùng đất mới ở châu Mỹ, sau được sử dụng cho tất cả những người da trắng sinh ở thuộc địa, họ là những người da trắng và thuật ngữ này không hàm nghĩa mẹ của họ là người bản xứ)


Có thể đọc thêm Lời mở đầu cuốn sách  ở đây:http://huybeo.blogspot.com/2011/06/benedith-anderson-quoc-giadan-toc-la-gi.html

Đọc một chương khác ở đây: http://chuyencuachi.blogspot.com/2012/01/nhan-thuc-ve-thoi-gian.html





Bottom of Form

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

PHONG TRÀO TẨY CHAY HOA KIỀU Ở VIỆT NAM NĂM 1919 (qua nguồn tư liệu báo chí đầu thế kỷ 20)*

                                                                                                          Đặng Thị Vân Chi * Đặt vấn đề T...