Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Văn hóa như là sự khác biệt:Nghiên cứu Dân tộc học về bản sắc


Gabriela Kiliánová
Institute of Ethnology, Slovak Academy of Sciences, Bratislava
( Đặng Thị Vân Chi dich)
 "Trong một nghiên cứu tổng kết của mình, Lawrence Grossberg tuyên bố ủng hộ 6  hình quan trọng của  nghiên cứu văn hóa: 1. Văn hóa như là văn bản; 2. Văn hóa như là sự truyền đạt giao tiếp;  3. văn hóa như là sự khác biệt; 4. Văn hóa trong không gian chính trị - xã hội; 5. Văn hóa trong thể chế chính trị; 6. T văn hóa đến diễn ngôn và cuộc sống thường ngày.
 Bắt đầu từ sáu  hình, bài tiểu luận thảo luận về mô hình hiện nay trong nghiên cứu văn hóa và ảnh hưởng của nó  hoặc dựa vào hoặc pha trộn giữa dân tộc học châu Âu, nhân học văn hóa và nhân học xã hội.. Các tác giả di chuyển xa hợn, hướng tới   hình cụ thể văn hóa như là sự khác biệt  tập trung sự chú ý của mình vào bản sắc (tập thể)  như  khái niệm trung tâm. Các cuộc thảo luận lý thuyết được hỗ trợ bởi một số ví dụ từ các nghiên cứu đã hoàn thành gần đây trong dự án của Trung tâm ưu tú của Học viện Khoa học Slovak: Bản sắc tập thể trong các xã hội hiện đại. Khu vực Trung tâm châu Âu. Kết quả thực nghiệm và  thuyết của dự án sẽ được thảo luận trong phạm vi mô hình văn hóa như là sự khác biệt
      "Bài viết này nhằm mục đích góp phần vào các cuộc thảo luận về những hình dung khác nhau về văn hóa mà các hình dung này  chủ đề trung tâm của Đại hội Slike kulture nekad isad  [Hình dung về văn hóa trong quá khứ và hiện tại doViện dân tộc học Serbia của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật  Belgrade tổ chức(1) 


 Diễn ngôn chính thống trong khoa học xã hội gần đây- ít nhất là theo quan điểm của tôi đã được dựa trên tiền đề  thuyết cho rằng văn hóa  thể được nghiên cứu như một cấu trúc, như một hình dung trong tâm trí của con người, có nghĩa là trong tâm trí của những người trình diễn trong tiến trình xã hội. Nói cách khác, lập luận theo phương pháp tiếp cận cấu trúc,   đề cập đến các đại diện nhận thức trong tâm trí của các thành viên tham giaTheo luận chứng nghiên cứu hầu hết các kết quả khảo sát về hình ảnh, danh mục, giá trị, chuẩn mực v.v của người dân với tư cách cá nhân và /hoặc với tư cách là thành viên của các nhóm xã hội. Tuy nhiên, chúng tôi không phải là nhà tâm lý học mà là nhà dân tộc học và chúng tôi phải dựa vào/muốn dựa vào phương pháp nghiên cứu của chúng tôi, đặc biệt là phương pháp khảo sát điền dã- quan sát, phỏng vấn người được hỏi ...Vì vậy, câu hỏi có thể được nâng lên, làm thế nào nhà dân tộc học có thể khảo sát đại diện tinh thần bằng phương pháp nghiên cứu của họ? Theo tôi, nhà dân tộc học không thể điều tra các đại diện  tinh thần như vậy.

       Tuy nhiên, họ có thể, một mặt, quan sát các hệ quả của  đại diện tinh thần là các hoạt động, hành động, hành vi của những người tham gia, những  người đã hành động có ý thức hay vô thức chịu ảnh hưởng của nền văn hóa của họ (2) và mặt khác, các nhà dân tộc học có thể cung cấp các cuộc phỏng vấn và theo câu chuyện kể của người tham gia, người phản ánh (cá nhân hoặc tập thể) các hoạt động, các hành động, và hành vi của họ. Đây có thể là cách để các nhà dân tộc học tiếp cận các diễn trình văn hóa.


       Trong bài viết ngắn, trước hết, tôi muốn tập trung sự chú ý của tôi vào sáu mô hình nghiên cứu văn hóa được định nghĩa bởi Lawrence Grossberg (3), tôi cho rằng nghiên cứu văn hóa đã phát triển một ảnh hưởng hữu hình và quan trọng về diễn ngôn có tính hàn lâm từ thập niên tám mươi của thế kỷ 20. Tôi giả định rằng sự phát triển này tạo ra một tác động trực tiếp đến những thay đổi của mô hình trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn bao gồm cả dân tộc học, nhân  học xã hội và nhân học văn hóa trong thời  kỳ này.


      Mục tiêu thứ hai của bài luận của tôi sẽ là chuyển sự chú ý của người đọc hướng tới một  mô hình tiếp cận văn hóa cụ thể , đó là hướng tới  nghiên cứu văn hóa như là sự khác biệt. Trong bối cảnh này, tôi sẽ tập trung thảo luận về bản sắc (tập thể)  như là khái niệm trung tâm của mô hình .


      Thứ ba, những ý tưởng có tính lý thuyết sẽ được hỗ trợ bằng một số dữ liệu từ các nghiên cứu đã hoàn thành gần đây trong dự án Trung tâm ưu tú của Học viện Khoa học  Slovak có tên là  Bản sắc tập thể trong các xã hội hiện đại. Khu vực Trung tâm châu Âu. (4) Nghiên cứu liên ngành được tập trung vào quá trình xây dựng, tái sinh và chuyển đổi bản sắc tập thể trong xã hội hiện đại ở Xlô-va-ki-a từ thế kỷ 16 cho đến thời kỳ đương đại. Và đó là cách tiếp cận nêu ở  trên có thể hoạt động với khái niệm trung tâm của  mô hình  văn hóa như là sự khác biệt .


     Liên quan đến điểm thứ nhất, vào cuối những năm chín mươi, Lawrence Goldberg đã xuất bản một bản tóm tắt thú vị về xu hướng nghiên cứu, định hướng nghiên cứu và kết quả trong nghiên cứu văn hóa trong nửa cuối của thế kỷ 20. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nghiên cứu văn hóa trong những năm gần đây và tác động của chúng qua diễn ngôn chính trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Vào cuối những năm bảy mươi và vào đầu những năm 1980, mô hình chính đó được dần dần đổi chỗ cho một mô hình khác là  văn hóa trong thời gian xã hội. Lối vào của một mô hình mới, sau này được xem như là một bước ngoặt trong nghiên cứu văn hóa, thay đổi định hướng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn và mang lại các vấn đề  nghiên cứu mới như: các mối quan hệ giữa 'chúng ta và những người khác”, giữa đa số và thiểu số, dân tộc và nhóm tộc người, giữa trung tâm và ngoại vi? (5) Cái gì là đại diện có tính biểu tượng của nghiên cứu hiện tượng? 
      Trong thực tế, các câu hỏi nghiên cứu mới - phát triển giữa những người giữ vai trò chính trong nghiên cứu văn hóa – tiếp tục với một số cuộc thảo luận trước đây đã bắt đầu trong lĩnh vực dân tộc học, nhân học xã hội và văn hóa và lịch sử xã hội  như ở đầu những năm 50, hoặc trong một số trường hợp thậm chí còn sớm hơn nữa. Các ngành và nghiên cứu của họ với sự hỗ trợ của nghiên cứu văn hóa vào thập niên bảy mươi và tám mươi của thế kỷ 20 - đã được đưa vào trung tâm của diễn ngôn hàn lâm. Ví dụ như người ta nhớ thuật ngữ nhân học văn hóa “mô tả dày” của Geertz  đã trở nên phổ biến cũng nhờ sự phát triển của nghiên cứu văn hóa, mà đã giới thiệu thuật ngữ này và thuật ngữ khác như các công cụ trí tuệ trong các diễn ngôn liên ngành rộng rãi (6) .
     Lawrence Grossberg lập luận rằng kể từ thập niên tám mươi, nghiên cứu văn hóa sử dụng sáu mô hình, cho phép tiếp cận văn hóa từ những góc độ phân tích khác nhau. Thứ nhất, nghiên cứu văn hóa như là văn bản. Mô hình "đã giải quyết vấn đề về vai trò của các hình thức và thực hành văn hoá trong toàn xã hội". Như Grossberg giải thích, phương pháp tiếp cận quy định "liên kết thông thường kết hợp các yếu tố khác nhau của sự hình thành xã hội vào sự thống nhất toàn thể (cho dù có hòa hợp hay không)" (7) Mô hình thứ hai định nghĩa văn hóa như truyền đạt giao tiếp. Trong cách tiếp cận "học giả” này một mặt đã giải quyết các mối quan hệ giữa các loại hình và thực hành văn hóa và mặt khác là mối quan hệ giữa vị trí xã hội và kinh nghiệm. Mô hình này giả định rằng văn hóa là luôn luôn giao tiếp và có thể được ánh xạ vào một mạng lưới hai chiều "(8). Mô hình này đã được sử dụng và phát triển trong hai biến thể: một cái theo truyền thống khoa học ở Mỹ (lý thuyết biểu tượng tương tác) và cái khác ở Anh (biện chứng giữa sự thống trị và kháng cự). Thứ ba, nghiên cứu văn hóa đã hiểu văn hóa như là sự khác biệt. Tôi sẽ thảo luận về mô hình này đặc biệt là ở phần tiếp theo của bài tiểu luận của tôi. Thứ tư, nghiên cứu văn hóa đã được tập trung vào văn hóa trong không gian chính trị - xã hội. Như vậy mô hình tập trung sự chú ý  vào mối quan hệ giữa văn hoá và nhà nước và các lý thuyết phát triển về quyền lãnh đạo "như một quan hệ cấu trúc quyền lực không thể tránh khỏi sự dính líu tới văn hóa trong bộ máy nhà nước và logic của chính phủ".Tôi muốn làm nổi bật sự phát triển lý thuyết về quyền lãnh đạo trong mô hình này bởi vì "(nó) có những bài học quan trọng về kết nối chính trị phổ biến như các diễn ngôn hàng ngày và logic, và về sự  đa chiều và phức tạp của các kết nối  bản sắc và sự khác biệt  xã hội ". Đồng thời, nó nên được chú ý rằng trong mô hình một biến thể mới của việc triển khai không gian văn hóa được nghiên cứu, cụ thể là văn hóa trong không gian toàn cầu (9) Mô hình thứ năm về văn hóa có thể được coi là liên quan chặt chẽ với cái  trước đó. Các nhà nghiên cứu (10) lấy cảm hứng từ Michel Foucault tập trung vào các kết nối thể chế của quyền lực và tri thức. Như Grossberg giải thích: "công trình này tập trung vào các hiệu ứng vật chất của bộ máy văn hóa quan liêu, xem xét làm thế nào mà sự diễn ngôn có tính thể chế đã tạo ra một cấu trúc đặc biệt của chính chủ thể  như một ảnh hưởng có tính lịch sử của quyền lực" (11) Cuối cùng, Grossberg đặt tên mô hình thứ 6 của ông là từ văn hóa tới diễn ngôn và cuộc sống hàng ngày. Cách tiếp cận này đã cố gắng mô tả các mối quan hệ của diễn ngôn và cuộc sống hàng ngày và " (đã )thách thức giảm dần việc xây dựng văn hóa với vai trò trung gian của ý nghĩa, giảm lưu thông chống lại những khoảnh khắc của sản xuất và tiêu dùng, việc xác định tính chủ quan và trung gian , tính ưu việt của sự phủ định trong việc xây dựng bản sắc, và tính ưu việt của thời gian qua không gian "(12) Grossberg kết luận ánh xạ của các mô hình văn hóa với các tuyên bố rằng theo hiểu biết của ông,  mô hình đầu tiên và thứ hai 'trở thành những mô hình còn sót lại trong nghiên cứu văn hóa, mô hình thứ ba và thứ tư hiện đang có vị trí  "thống trị", và  mô hình thứ năm và thứ sáu có thể được hiểu là đang 'nổi lên'.


       Tôi sẽ trở lại với mô hình văn hóa như là sự khác biệt với khái niệm trung tâm về 'bản sắc', mà Grossberg đã đánh dấu trong những năm qua như là phương pháp tiếp cận 'thống trị'. Theo Zygmunt Bauman nghiên cứu về bản sắc là một lĩnh vực hữu ích trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 mà "các vấn đề truyền thống của khoa học xã hội đã được chỉnh sửa để phù hợp với diễn ngôn chính xoay quanh trục bản sắc" (13) Văn hóa là sự khác biệt là một cách tiếp cận có liên quan với quá trình xây dựng bản sắc, tức là với việc tạo ra chính mình và những cái khác như giả định về sự khác biệt. Như Grossberg nói thêm về câu hỏi nghiên cứu đã được tập trung trên các mối quan hệ ý nghĩa và diễn giải, giữa bản sắc và sự trung gian, giữa nhân dân và  cơ quan đại diện. Trong thực tế, các nhà nghiên cứu điều tra chủ yếu là các mối quan hệ văn hóa và trải nghiệm. Grossberg kết luận rằng "các yếu tố phổ biến trong quan niệm về văn hóa có thể được mô tả bởi các mối quan hệ văn hóa và kinh nghiệm, ở chỗ cái đầu phục vụ theo một cách nào đó như là một đại diện của/ cho cái sau ..." (14)


        Có những ý tưởng này trong suy nghĩ của chúng tôi, tôi muốn phác thảo sự chú ý của chúng tôi vào phần thứ ba của bài báo, trong đó bao gồm một số ví dụ từ các nghiên cứu trong dự án Trung tâm của quá trình ưu tú. Trong dự án liên ngành, đầu tiên chúng tôi định nghĩa bản sắc tập thể rất rộng như là chia sẻ nhận thức về 'chúng ta' phân biệt 'chúng ta' từ 'người khác'. Xem xét chính đã được chuyển hướng tới các nhóm, nhưng cá nhân cũng là trung tâm nghiên cứu của chúng tôi bởi vì nó cần thiết để ủng hộ họ như những người tham gia xây dựng nhóm hoặc giải tán nhóm. Bản sắc tập thể đã được nghiên cứu như là quá trình kết nối với sự bắt đầu  về hình dung nhóm, phát triển khái niệm nhóm, với việc tiếp cận một ý tưởng như vậy và xác định với nó bởi các thành viên trong nhóm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi ủng hộ việc xây dựng, tái sinh và biến đổi bản sắc tập thể kết nối với các nhóm xã hội lớn hơn. Nghiên cứu của chúng tôi được tập trung vào quốc gia, (Slovak)  dân tộc thiểu số, nhóm tôn giáo hay giáo phái, các nhóm ngôn ngữ, và các nhóm giới trong Slovakia. Bản sắc tập thể được hiểu là sản phẩm của quá trình xây dựng và chuyển đổi bối cảnh lịch sử (kinh tế, xã hội, tư tưởng và văn hóa) cụ thể. Nhưng đồng thời chúng tôi nghiên cứu các đại diện của bản sắc ( ví dụ như bản sắc dân tộc). Thứ hai, các bản sắc được nghiên cứu tỉ mỉ như các thực thể thực sự tồn tại mà các diễn viên (chính trị gia, các nhà lãnh đạo của các phong trào, nhóm ưu tú, hoặc thành viên trong nhóm) nhắc đến. Các diễn viên xác nhận các thực thể (với sự giúp đỡ của lời thuyết minh, hình ảnh ...) hoặc thay đổi chúng. Tuy nhiên, như Pierre Bourdieu đã chỉ ra, quá trình có thể đi xa hơn. Tôi đề cập đến ý tưởng của ông ấy mà các hiểu biết về đời sống xã hội, được chia sẻ bởi các diễn viên, không chỉ cung cấp cho các đại diện phổ biến và đầy đủ của nhóm, nhưng các kiến thức chung về đời sống xã hội có thể áp đặt sự thay đổi xã hội, có thể huy động các hành động chính trị, xã hội. Và những hành động này sẽ tạo ra sự thay đổi của đời sống xã hội (15 ). Vì vậy những người tham gia quá trình dự án đã cố gắng nghiên cứu các mối quan hệ lẫn nhau giữa các hành động, giữa các cơ quan đại diện của đời sống xã hội cũng như  giữa các diễn viên. Vì vậy, họ điều tra quá trình phụ thuộc lẫn nhau của quá trình thay đổi xã hội: thay đổi thực tế xã hội và đại diện nhận thức về thay đổi thực tại xã hội.
        Cuối cùng, tôi sẽ đề cập đến một cách tiếp cận rất quan trọng mà chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi, được lấy cảm hứng từ các tác phẩm của Rogers Brubaker. Chúng tôi đã cố gắng để tránh chủ nghĩa nhóm, bởi Brubaker "có nghĩa là (s) các xu hướng rời rạc, nhóm được giới hạn như là thành phần cơ bản của đời sống xã hội, nhân vật chính của xung đột xã hội và các đơn vị cơ bản của các phân tích xã hội. (16)Phương  pháp tiếp cận như vậy trong các nghiên cứu thực nghiệm về quốc gia, dân tộc hay  nhóm ngôn ngữ tại Xlô-va-ki-a không chỉ tiết lộ các yếu tố trung tâm của việc xây dựng bản sắc (tập thể), mà đã đi  vào   xem xét quá trình khác. Tôi muốn nói là các quá trình, không được đầy đủ, không đạt được mục tiêu của chúng. Nói cách khác, trong một số trường hợp, chúng tôi ủng hộ  các diễn viên đã thất bại trong việc xây dựng nhóm và những ý tưởng đã không thành công, không được thông qua bởi các thành viên trong nhóm và bị quên lãng. Điều đó có nghĩa là chúng tôi ủng hộ các quy trình xây dựng nhóm trong bối cảnh lịch sử được xác định với quan điểm cho rằng các quá trình như vậy có thể được phân chia trong nhiều thời gian, có thể liên quan đến tác nhân khác nhau, chiến lược khác nhau. Một số người trong số họ sẽ đạt được mục tiêu, sẽ được thông qua và được tái tạo bởi các thành viên trong nhóm và một số người trong số họ sẽ không. Câu hỏi nghiên cứu quan trọng trong trường hợp này là: làm thế nào nó có thể xảy ra và tại sao nó xảy ra như đã xảy ra. Các nghiên cứu khác nhau, hội tụ, quá trình liên tục hoặc gián đoạn và kết quả của chúng từ đó đưa  ra thông tin chi tiết và phức tạp hơn về các quá trình xây dựng bản sắc tập thể trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Xlô-va-ki-a và Trung Âu và trong khoảng thời gian đã từ thế kỷ 16 đến thời điểm hiện tại.
Kết luận


      Một trong các phương pháp tiếp cận đối với những hình dung về văn hóa có thể là nghiên cứu văn hóa như là sự khác biệt. Các nhà nghiên cứu, những người sử dụng phương pháp tiếp cận, có liên quan tới trung tâm của khái niệm bản sắc chính xác hơn với khái niệm bản sắc tập thể. Nghiên cứu phương pháp tiếp cận thường bắt đầu từ những hình dung về “chúng ta 'và' người khác '. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận liên quan đến các khái niệm về bản sắc trong những năm qua đã mang lại sự hiểu biết đa tầng và đa cấp của khái niệm, được ủng hộ  bởi những câu hỏi nghiên cứu mới. Từ trong nhiều nguồn cảm hứng trong diễn ngôn tôi tìm thấy những ý tưởng tiếp theo đặc biệt  trong hiệu quả và sản xuất: Ý tưởng của Pierre Bourdieu về các mối quan hệ lẫn nhau giữa hiểu biết về đời sống xã hội như  những đại diện nhận thức được chia sẻ bởi các thành viên của cùng một nhóm và tiềm năng của nó để áp đặt hành động, mà trong thực tế sẽ dẫn đến những thay đổi của đời sống xã hội. Thứ hai, cần phải tránh chủ nghĩa nhóm trong các nghiên cứu bản sắc như nó đã được thảo luận và được xác định bởi Rogers Brubaker. Và cuối cùng, nguồn cảm hứng từ phương pháp tiếp cận ban đầu và không bao giờ cũ của  Fredrik Barth, người đã chuyển sự chú ý của chúng tôi đối với khác biệt văn hóa là sản phẩm của truyền thông xã hội và vùng biên xã hội (17) tôi sẽ lập luận rằng những ý tưởng có thể giúp chúng tôi đi  theo con đường hướng tới tương lai đối với sự hiểu biết tốt hơn kulture slike (hình dung về văn hóa) và đặc biệt là trong hình dung văn hóa như là sự khác biệt.
-----
1. Tôi  xin chân thành cảm ơn các nhà tổ chức đã có lòng tốt mời tôi tới dự  Đại hội, được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Viện Dân tộc học Sasa ở Krusevac, ngày 16-ngày 19 tháng 10 năm 2007 và cho tôi trình bày báo cáo của tôi tại Đại hội. Công trình này được hỗ trợ bởi Cơ quan tài trợ khoa học của Bộ Giáo dục của Cộng hòa Tiếng Slovak và Học viện Khoa học, Mã số dự án 2/0041/08

2. Trong khía cạnh này, tôi xác định  văn hóa như là một cấu trúc  hình ảnh, thể loại , các giá trị, chuẩn mực ... trong tâm thức của người dân, tức là như một cấu trúc đại diện
 3. Grossberg, Lawrence: Globalization and the „Economization“ of Cultural Studies. In: Lutz Musner – Gotthard Wunberg eds.: The Contemporary Study of Culture. Wien, Turia+Kant 1999, 23-46
4. Dự án bản sắc tập thể trong các xã hội hiện đại. Khu vực Trung tâm châu Âu. (sau đây dùng cách viết tắt) là một chương trình liên ngành tập hợp 27 nhà nghiên cứu từ lĩnh vực dân tộc học, nghiên cứu Đức, nghiên cứu văn hóa dân gian, lịch sử, triết học, ngôn ngữ học, nghiên cứu tôn giáo, xã hội học, tâm lý học xã hội và khoa học chính trị. Dự án, thực hiện từ năm 2002-2006, được điều hành bởi Viện Dân tộc học ,  Học viện Tiếng Slovak Khoa học (sau đây gọi tắt là SAS) Bratislava. Nghiên cứu viên chính của dự án là doc.TS. Eva Krekovičová, DrSc.  Tổ chức cung cấp người tham gia bao gồm: Viện Lịch sử SAS, Viện Triết học SAS, Ľudovít Štúr Viện Ngôn ngữ học SAS, nhân viên của Oriental SAS, Viện Xã hội học SAS, Viện Khoa học Xã hội SAS tại Košice, Khoa Triết học của Đại học Comenius ở Bratislava - Viện Dân tộc học and Nhân học văn hóa, Khoa Lịch sử, Viện Nghiên cứu Đức và Bắc Âu. Mô hình Academia Istropolitana Nova Svätý Jur. Kết quả dự án thể hiện trong nhiều cuốn sách và bài ​​báo khoa học. Tôi chỉ  nêu tên hai tác phẩm cuối cùng và quan trọng nhất:  chuyên khảo khoa học của Vladimír Krivý, Olga Danglová: mnohých Svet "oni của tôi". Kolektívne sắc na súčasnom Slovensku. [Thế giới của nhiều người "chúng ta và những người khác". Bản sắc tập thể đương đại Xlô-va-ki-a]. Bratislava Centrum excelentnosti SAV Kolektívne  "năm 2006. ISBN 80-85544-50-4, Gabriela Kiliánová, Kowalská Eva, Eva Krekovičová (eds.): a tí druhí v modernej spoločnosti. Konštrukcie transformácie kolektívnych identít [Chúng tôi và những người khác trong xã hội hiện đại. Công trình xây dựng và chuyển đổi bản sắc tập thể] Để biết thêm thông tin về dự án xem http://www.uet.sav.sk/en/projec
5. Lutz Musner, Gotthard Wunberg: Kulturstudien heute. Eine Gebrauchseinleitung. In: Lutz Musner – Gotthard Wunberg eds.: Nghiên cứu văn hóa đương đại. Wien, Turia+Kant 1999, 9-15.
6. Aleida Assmann, Cultural Studies and Historical Memories. In: Lutz Musner, Gotthard  Wunberg eds., Nghiên cứu văn hóa đương đại. Wien, Turia+Kant 1999, 85-99.
7. L. Grossberg: Globalization and the “Economization“ of Cultural Studies, p. 31
 8. Ibid, 31
9 Ibid, 33-34.
10. Grossberg mentioned explicitly the achievements in Australian cultural studies by the sociologist Tony Bennett and the historian Ian Hunter.Grossberg đã đề cập một cách rõ ràng những thành tựu trong nghiên cứu văn hóa Úc của nhà xã hội học Tony Bennett  và nhà sử học Ian Hunter.
11. Ibid, 35.
12. Ibid, 36.
13. Zygmunt Bauman, Individualizovaná společnost. [Individualized Society]. Praha, Mladá fronta,
2004, p. 166. Về nghiên cứu bản sắc cũng có thể xem thêm: Gerd Baumann, Andre Gingrich (eds.), Grammars of Identity/ Alterity. A Structural Approach. New York – Oxford, Berghahn Books, 2004; Russel Hardin, Identity: Social. In: Neil J. Smelser, Paul B. Baltes (eds.), International Encyclopedia of the Social & Behavioral Sciences, Amsterdam - Paris - New York – Oxford – Shannon – Tokyo, Elsevier 2001, Volume 11, 7166-7170; Tanya Marie Luhrmann, Identity in Anthropology. In: Neil J. Smelser, Paul B. Baltes (eds.), International Encyclopedia of Social & Behavioral Scineces, Amsterdam - Paris - New York – Oxford – Shannon – Tokyo, Elsevier 2001, Volume 11, 7154 -7159; David A. Snow, Collective Identity and Expressive Forms. In: Neil J. Smelser, Paul B. Baltes (eds.), International Encyclopedia of the Social & Behavioral Sciences, Amsterdam - Paris - New York – Oxford – Shannon – Tokyo, Elsevier 2001, Volume 4, 2212 – 2219.
14. L. Grossberg, Globalization and the “Economization” of Cultural Studies, 33.
15. Pierre Bourdieu, Description and Prescription: The Conditions of Possibility and the Limits of Political Effectiveness. In: Pierre Bourdieu: Language and Symbolic Power. Oxford - Cambridge, Polity Press, Blackwell Publishers 1994, 127-136. See also Pierre Bourdieu, Identity and Representation: Elements for a Critical Reflection on the Idea of Region. In: Pierre Bourdieu: Language and Symbolic Power, Oxford - Cambridge, Polity Press, Blackwell Publishers 1994, 220-228.
16. Rogers Brubaker, Ethnicity without Groups. In: Rogers Brubaker, Ethnicity without Groups. Cambridge, Massachusetts, and London, England, Harvard University Press, 2004, 8 ff.
17. Fredrik Barth, Introduction. In: F. Barth, Ethnic Groups and Boundaries. The Social Organization of Culture Differences, Johansen & Nielsen Boktrykkerl, Oslo


4 nhận xét:

  1. cái này tui đọc tiếng Việt còn bể cái đầu vì sự khái quát quá cao, đem ra giảng phải dùng nhiều ví dụ lắm học trò như tui mới hiểu, nể Vân Chi quá !

    Trả lờiXóa
  2. Có lẽ tại trình độ tiếng Anh của em còn kém nên dịch khó hiểu anh Tú à. Em sẽ cố gắng chính sửa dần dần

    Trả lờiXóa
  3. không, tui nói thật mà, người Quảng Nôm không quen nói mỉa đâu :)
    Đúng là người Châu Âu, vì sống trong một cộng đồng tương đối giống nhau, chỉ khác chút ít về ngôn ngữ, còn lịa giống nhau nhiều thứ, nên họ băn khoăn về bản sắc rất mạnh, vì thế đã tiến rất xa trong việc nghiên cứu bản sắc văn hóa. Người Á Đông mình nước nào ra nước nấy, dân tộc nào ra dân tộc nấy nên sự sự băn khoăn ít hơn. Giờ du nhập hệ thống lý luận này vào chắc chắn sẽ rất mệt cái đầu. Lê Thanh Hải giỏi mấy khoảng này lắm.

    Trả lờiXóa
  4. Theo em thì thế này anh Tú ạ:
    Tại sao /khi nào người ta bắt đầu quan tâm đến chuyện " bản sắc"?
    Đó là khi người ta bắt đầu có sự giao lưu/tiếp xúc với những "người khác" không giống "ta". Như em hoặc như anh sống giữa quê hương mình, những người cùng nguồn gốc, cùng văn hóa với mình thì mình sẽ chẳng băn khoăn " bản sắc" của mình làm gì. Nhưng khi anh ra nước ngoài, sống giữa cộng đồng "khác" không giống mình,sự va chạm giữa những "khác biệt", đặc biệt về tôn giáo và tín ngưỡng(LÒNG TIN)) rất nhiều khi dẫn đến xung đột đã khiến ta phải quan tâm đến vấn đề bản sắc.
    Các học giả châu Âu đã bắt đầu quan tâm đến bản sắc chính từ khi họ bành trướng ra khắp thế giới và khi những người dân từ các nước thuộc đia châu Á, châu Phi đến định cư tại các Mẫu quốc ( Anh,Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha...) từ các thế kỷ I8, I9, 20. Và đặc biệt xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập ngày nay với các xung đột sắc tộc đã khiến vấn đề tìm hiểu bản sắc càng trở nên nóng bỏng. Anh có thể xem thêm bài" Ranh giới tộc người, sự khác biệt văn hóa và hệ thống xã hội đa sắc tộc" mà em đưa lên trước bài này. Sự di dân và nhập cư có xu hướng toàn cầu đã dẫn đến việc hình thành nên các xã hội đa sắc tộc và ranh giới tộc người không còn bó hẹp trong biên giới lãnh thổ quốc gia nữa mà ranh giới xã hội được quan tâm nhiều hơn.
    Bản thân em cũng quan tâm đến vấn đề bản sắc của VN vì em tiếp xúc hàng ngày với những người nước ngoài và nhiệm vụ của em là dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa VN cho người nước ngoài.
    Và theo em, tìm hiểu bản sắc có lẽ không nên tìm những nét khác biệt hoàn toàn vì thực sự rất khó có gì là của riêng một dân tộc nào mà nên tìm sự "khác biệt" ( trong tư duy, ứng xử...) trong những tình huống/ điều kiện giống nhau...

    Trả lờiXóa

PHONG TRÀO TẨY CHAY HOA KIỀU Ở VIỆT NAM NĂM 1919 (qua nguồn tư liệu báo chí đầu thế kỷ 20)*

                                                                                                          Đặng Thị Vân Chi * Đặt vấn đề T...