GS. Momoki Shiro trong thư viện khoa Lịch sử tại Đại học Osaka
GS. MOMOKI Shiro
Đại học Quốc gia Osaka, Nhật Bản
( Tham luận tại Hội thảo 1000 năm Vương triều Lý và định đô Thăng Long tại Hà Nội ngày 21/11/2009)
1. Sự ổn định của quyền lực nhà Lý
Trong phương pháp luận hiện đại của sử học và khu vực học (area studies), lý thuyết nhân học (anthropology) và giới học (gender studies) về các lĩnh vực như loại hình quan hệ giữa những con người, quyền lực và uy tín, gia đình và hôn nhân v.v. hay được áp dụng khi nghiên cứu các đề tài quen thuộc như thiết chế chính trị và các chính sách, hoặc các nhân vật và thế lực chính trị.
Để tìm hiểu lịch sử chính trị thời Lý , cách tiếp cận như trên cũng bổ ích. Theo quan điểm khu vực học Đông Nam Á chẳng hạn, xã hội Việt Nam trước thế kỹ XIV nói chung mang nặng tính chất Đông Nam Á. Vì pháp chế và bộ máy quan liêu còn non yếu, các mô hình chính trị - xã hội Nho giáo như chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ phụ hệ chưa được xác lập, nên thiết chế chính trị trong giai đọan đó vẫn có thể lý giải bằng mô hình quốc gia Đông Nam Á “mandala” (Wolters 1982; 1999). Vậy mô hình chính trị chuyên chế mang tính chất Đông Á cũng như mô hình gia đình chịu ảnh hưởng Nho giáo, các mô hình đã chi phối xã hội và nhà nước sau thế kỷ XV, được phát triển và xác lập qua con đường nào?
Trong đời Lý Thái Tổ và Thái Tông, các vua và hoàng tử phải tự mình ra trận nhiều lần để dẹp yên các địa phương đã chống lại. Ngay trong chính quyền trung ương, Thái Tông phải đánh bại và dẹp yên sáu hoàng tử khác bằng vũ lực để lên ngôi và giữ gìn ngai vàng. Mặc dù không có chuyện tranh giành ngôi báu giữa các hoàng tử xảy ra, đời Thánh Tông cũng phải đối phó với Nùng Trí Cao muốn xây đựng nhà nước riêng. Ngai vàng trong ba đời đầu của nhà Lý được bảo vệ và kế thừa bởi các vua và hoàng tử đã lớn tuổi và rất tài ba, có uy tín, giống như các quốc gia Đông Nam Á theo kiểu “mandala”. Song, đời Nhân Tông trở về sau, vua thơ ấu có thể giũ gìn ngai vàng. Tình hình địa phương khá ổn định. Khi Thần Tông lên ngôi, sự lựa chọn của Nhân Tông để cho một trong những hoàng tộc kế thừa ngôi báu của mình còn có đủ hiệu qủa mặc dù chính Nhân Tông đã mất rồi (như thế không phải là chuyện tự nhiên). Chế độ lập nhiều hoàng hậu bị xóa bỏ từ đời Thần Tông. Tất cả điều đó chứng minh sự “trệch đi” từ truyền thống chính trị Đông Nam Á (Wolters 1976).
Sự ổn định quyền lực nói chung và chế độ kế thừa ngai vàng nói riêng có thể giải thích bằng những lý do “bên trong” và“bên ngoài” hoàng gia. Tác giả đã công bố một bài khoa học (Momoki 2000B) để tìm hiểu lý do “bên trong”. Trong bài đó, tác giả không nói nhiều về công lao của bản thân các vua, lại phân tích kỹ hơn vai trò của các bà Hoàng hậu và Hoàng thái hậu thời Lý trong sự nghiệp xác lập và củng cố “vương triều phụ hệ lâu dài” lần đầu tiện xuất hiện ở Việt Nam. Các bà ấy có tài sản riêng và sức mạnh chính trị riêng, chứ chưa phải là người lệ thuộc vào chế độ gia trưởng (của họ Lý cũng như của họ mình). Nhưng các bà ấy sẵng sàng bảo vệ vương triều phụ hệ, có lẽ dưới ảnh hưởng của ý thức quốc gia chung cho rằng khi nào việc kế thừa ngai vàng theo mô hình phụ hệ có trục trặc thì Trung Quốc (và Champa) có thể can thiệp như trường hợp năm 979-980 .
Về lý do “bên ngoài”, các nhân tố như ảnh hưởng không những về mặt tư tưởng mà còn về mặt chính trị của Phật giáo và Nho giáo, sự đóng góp của một số đại thần và ngoại tộc thường được nêu lên. Để bổ sung cho các luận điểm trong bài trước, trong bài này tác giả muốn phân tích vị trí và vai trò tại triều đình của những người đại thần (tức đàn ông) khác họ (dị tính) tức nhân vật quan trọng mà không thuộc hoàng gia trong quan hệ phụ hệ. Khi phân tích vị trí của các đại thần, chúng ta nên tham khảo công trình tìm hiểu về chế độ tể tướng của Fujiwara Riishiro (Fujiwara 1987) và Keith Taylor (Taylor 1986: 152-156). Theo bài của cố giáo sư Fujiwara, các quan thái sư, thái phó, thái úy, thái bảo đều là quan tể tướng (có tên gọi phụ quốc bình chương quan quốc trọng sự như là gia quan hoặc chức danh có chức năng năng cao uy quyền tể tướng), trong đó thái sư có địa vị cao nhất. Còn giáo sư Taylor nghĩ rằng các thái sư như Lương Nhậm Văn (đời Thái Tông), Lý Đạo Thành và Lê Văn Thịnh (đầu đời Nhân Tông) có sức mạnh lớn trong triều đình vào thế kỷ XI, nhưng thái độ tôn vinh Nho giáo của Đạo Thành và Văn Thịnh là do sự tô điểm của các tài liệu đời sau, thực tế là ảnh hượng của Phật Giáo vẫn mạnh. Và đến thế kỷ XII thì các Thái úy như Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành (thuộc ngoại tộc của vua) đã cầm quyền. Ngoài những người được bổ nhiệm các quan hoặc chức như trên, các nhân vật đã đứng đầu các hoạt động quân sự hoặc các phái đoàn sang Trung Quốc cũng hay được ghi chép trong các bộ biên niên sử.
2. Các nhân vật dị tính đã cầm quyền
2.1. Ba đời đầu thời Lý (1009 – 1072)
Trong thời Lý, tể tướng thường thay đổi khi vua mới lên ngôi. Và bối cảnh dòng họ của nhiều tể tướng không rõ. Cho nên Fujiwara (1987: 9) cho rằng, khi mới lên ngôi, vua (nếu vua ít tuổi thì hòang thái hậu) thường bổ nhiệm người thân thích (người gần gũi với vua trong quan hệ dòng họ hoặc quan hệ hôn nhân) hoặc cận thần (người trực tiếp phục vụ cho vua) làm tể tướng. Các bộ biên niên sử cũng cho thấy trong ba đời đầu thời Lý ít có đại thần ngoài họ Lý có quyền lực lớn. Không thấy đại thần nào giữ quyền lực qua nhiều đời. Hoạt động của các bà hoàng hậu và dòng họ hoàng hậu (ngoại tộc của nhà vua) cũng không được ghi chép mấy .
Về các thế lực tôn giáo, trong các nguồn tài liệu tất nhiên có nhiều thông tin về hoạt động Phật giáo như việc xây dựng chùa chiền, đóng góp tiền của cho nhà chùa, cấp bằng cho tăng ni, tổ chức nghi lễ v.v. Nhưng hoạt động chính trị của các thế lực Phật giáo như thế nào, nhất là các nhà sư đã tham dự triều chính hay không là không rõ.
Trở lại các đại thần, Đào Cam Mộc có công khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi nên được lấy công chúa An Quốc, được phong Nghĩa Tín hầu vào năm 1009. Khi mất, ông được truy tặng Thái sư á vương (TT ). Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, Đào Thạc Bảo được bổ nhiệm làm thái bảo (SL, TT), năm 1012 ông làm sứ giả sang nhà Tống, năm 1020 ông đánh Chiêm Thành. Khi Lý Thái Tông lên ngôi thì Đào Xử Trung được bổ nhiệm làm thái bảo (SL, TT). Mặc dù quan hệ gia đình giữa ba nhận vật này không rõ, nhưng có thể chấp nhận rằng đầu thời Lý có thế lực của họ Đào. Khi vua Thái Tông thân đi đánh châu Định Nguyên, vua đóng lại ở châu Chân Đăng, ở đó Đào Đại Di đem dâng con gái (TT). Nếu Đào Đại Di cũng thuộc dòng họ trên thì dòng họ Đào có thể là thổ hào ở Chân Đăng (Phú Thọ ngày nay) .
Theo bia “Cự Việt quốc thái úy Lý công thạch bi minh tự” (Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr. 189) thì Lý Thường Kiệt (vì có công được tặng họ Lý) là con trai của thái úy Quách công (Quách Thịnh Dật , nhân vật đã đánh Nùng Trí Cao vào năm 1048 - SL, TT) trong triều Thái Tông. Khi Thánh Tông lên ngôi thì Quách Kình Nhật làm thái úy. Xét về quan thái úy, có lẽ họ Quách gấn liền với quân sự.
Ngoài ra, Lương Nhậm Văn (sang nhà Tống với tư cách là viên ngoài lang vào năm 1010 để thông báo sự lên ngôi của vua Thái Tổ) làm thái sư khi Thái Tông lên ngôi (TT). Lý Đạo Thành (chắc là hoàng tộc) làm thái sư từ đời Thánh Tông đến đầu đời Nhân Tông (TT-1072, 1073).
2.2. Đời Nhân Tông (1072-1127)
Từ đời vua những năm 1070 trở về sau, chế độ thi cử được thực hiện và nho thần và thư gia được tuyển dụng cho các công việc như giáo dục cho nhà vua và hoàng thái tử (Wolters 1976: 248). Chẳng hạn, Lê Văn Thịnh được trúng tuyển trong kì thi năm 1075 và vào hầu vua học. Sau đó Văn Thịnh phụ trách về đàm phán với nhà Tống về biên giới (đến năm 1084 là kết thúc) và làm thái sư năm 1085, nhưng vào năm 1096 thì bị đày vì muốn giết vua bằng “kỳ thuật” của gia nô là người nước Đại Lý (các thông tin trên đều ghi trong TT. Riêng chuyện năm 1096 được ghi chép trong cả Việt điện u linh). Xét về chuyện “kỳ thuật” vào năm 1096, chúng ta không nên đánh giáo cao ảnh hưởng Nho giáo trong giai đọan này.
Bên cạnh nho sĩ, thế lực của các nhà sư vẫn còn mạnh. Chẳng hạn, sư Khô Đầu được phong làm quốc sư vào năm 1088 (TT). Về mặt quân sự, không cần nói nhiều về cống hiến của Lý Thường Kiệt (mất năm 1105) đã đánh Tống và đánh Chiêm Thành. Chỉ có điều là chúng ta cần phải làm sáng tỏ vị trí của hoạn quan trong cơ chế triều chính nói chung và cơ chế quân sự nói riêng.
2.3. Đời Thần Tông (1127-1137)
Lê Bá Ngọc đã nổi lên trong triều đình trong giai đoạn cuối đời Nhân Tông (từ nội thường thị chuyển sang thị lang Lễ bộ vào năm 1124, làm nhập nội Lễ bộ thị lang năm 1125 – đều chép trong TT). Khi Nhân Tông mất thì Bá Ngọc với tư cách là võ vệ (trên danh nghĩa là theo lệnh của hoàng thái tử Dương Hoán) đóng cửa thành, không cho ai đi lại ra vào, sai cấm quân cầm vũ khí đứng dưới điện Thiên An để cho Dương Hoán lên ngôi. Nói tắt là Bá Ngọc đã cho Thần Tông lên ngôi dưới quan luật. Sau đó Bá Ngọc làm thái úy, thăng tước hầu (TT-tháng 1 năm1128) , làm thái sư, đổi họ làm Trương (TT-tháng 11 năm 1128), mất vào tháng 7 năm 1135(TT).
Mâu Du Đô (làm nội thường thị rồi nhập nội thường thị trung thừa năm 1125-TT) cũng có công phù tá Thần Tông lên ngôi , được làm gián nghị đại phu, thăng trật chức vệ (TT-tháng giên năm 1128), co danh hiệu nhập nội long đô (TT-tháng 6 năm1129), làm thái sư trong triều Anh Tông (SL-1142, TT-1144). Theo TT thì ông mất năm 1146 . Bác Ngọc và Du Đô được coi là cận thần mà chức năng văn võ chưa phân hoá một cách rõ ràng (Wolters 1976: 219).
Cùng thời kỳ đó, họ Lưu ở Thanh Hoá cũng có thể có quyền lực lớn với hai nhân vật thái úy Lưu Khánh Đàm và em trai là Lưu Khánh Ba (Cảnh Tuệ Linh 2004: 3-63). Khánh Đàm đã “nhận” di chúc của Nhân Tông cho Dương Hoán nối ngôi (TT-1127). Khánh Ba là nội nhân hỏa đầu, được làm thái phó khi Thần Tông lên ngôi (TT-tháng 1 năm 1128).
Thời Thần Tông có mấy trận đánh với Chân Lạp và Chiêm Thành, ở đó nhập nội thái phó Lý Công Bình và thái úy Dương Anh Nhĩ lập nhiều thành tích. Nhưng họ có vị trí và hoạt động trong triều đình như thế nào thì không rõ. Các bà vợ của Thần Tông và dòng họ của các bà ấy có quyền lực như thế nào cũng không rõ, nếu Lê Bá Ngọc không có quan hệ họ hàng với họ Lê ở châu Chân Đăng, dòng họ của hai phu nhân Cảm Thánh và Phụng Thánh của Thần Tông.
2.4. Các đời sau Anh Tông (1137-1225)
Khi Thần Tông sắp mất (TT viết là năm 1138, nhưng SL viết năm 1137 là đúng), ba phu nhân đã đem của đút cho tham tri chính sự Từ Văn Thông để thay đổi di chúc và lập Thiên Tộ (Anh Tông). Theo Thiền uyển tập anh (quyển hạ, 69b-70a), Viên Thông quốc sư cũng “nhận cố mạng và phụng di chiếu”.
Nhưng nhân vật đã cầm quyền (sau khi dẹp loạn của Thân Lợi) trong giai đoạn nửa đầu đời Anh Tông là thái úy Đỗ Anh Vũ. Theo TT, Anh Vũ là em trai của Đỗ thái hậu là mẹ đẻ của Thần Tông, được Lê thái hậu là mẹ đẻ của Anh Tông thâu dụng, nên được bổ nhiệm cung điện lệnh tri nội ngoại sự (TT-1140), chính sự việc lớn nhỏ đều ủy nhiệm cho Anh Vũ cả, sai vợ là Tô thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ thái hậu, bèn tư thông với Lê thái hậu (SL-1148, TT-1150). Theo bia “Cự Việt quốc thái úy Lý công thạch bi minh tự” là mộ chí của Đỗ Anh Vũ dựng năm 1159 (Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr. 189), bố của Anh Vũ là ngoại sanh (con trai cua chị em) của Lý Thường Kiệt, đã sinh một con trai và một con gái. Con trai là Anh Vũ, được thái sư Trương công (tức Lê Bá Ngọc đổi họ năm 1128) nhận ra tài năng và làm con nuôi của mình, nhân đó mà bắt đầu làm quan trong triều đình Nhân Tông. Còn con gái là Quỳnh Anh, đã lấy thị trung Phạm thị. Bia đó không nói gì về mối quan hệ với Đỗ thái hậu.
Anh Vũ bị bắt giam trong cuộc đảo chính do bọn điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái, Trí Minh vương, Bảo Ninh hậu, Bảo Thắng hậu, phò mã lang Dương Tự Minh v.v. đã tổ chức. Nhưng Lê thái hậu rất lo buồn, cố gắng cứu giúp, nên Anh Vũ được xá tội, bèn đàn áp phe đối lập một cách tàn ác (SL-1148, TT-1150). Anh Vũ tiếp tục lũng đoạn chính quyền, tư thông với thái hậu là vợ của vua trước, nhưng không cướp ngôi. Trường hợp Lê Hoàn đã cầm quyền sau khi Đinh Bộ Lĩnh mất thì ông thông với Dương thái hậu, rồi tự mình lên ngôi. Như thế là chuyện bình thường ở khu vực Đông Nam Á cũng như ở các khu vực khác. Thái độ của Đỗ Anh Vũ là thái độ mới mẻ trong lịch sử vường quyền Việt Nam (Taylor 1995: 60).
Sau khi Anh vũ mất năm 1158, Tô Hiến Thành (chắc có quan hệ họ hàng với vợ Anh Vũ) làm thái úy (TT-1159). Khi Hòang tử Long Trát được phong hòang thái tử thì Hiến Thành làm nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự tước vương, rồi làm nhiếp chính (TT-1175). Sau khi Long Cán (hoặc Long Trát tức Cao Tông) lên ngôi, Chiếu Linh hoàng thái hậu (vợ cả của Anh Tông) muốn lập hoàng tử Long Xưởng nhưng Hiến Thành không nghe, chắc vì Long Cán là con của Đỗ thái hậu , người cùng họ với Đỗ Anh Vũ. Trong giai đoạn đầu của đời Cao Tông, Hiến Thành (mất năm 1179) và Đỗ An Thuận hoặc An Di (em trai Đỗ thái hậu, làm thái sư đòng bình chương sự-TT-1175, phụ chính[TT-1179], thái sư phụ chính [SL-1182], mất năm 1188[SL, TT]) lần lựơt cầm quyền. Vì bố của Đỗ thái hậu (và Đỗ An Thuận) là anh họ của Đỗ Anh Vũ (bia “Cự Việt quốc thái úy Lý công thạch vi tịnh tự”- Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr.191) , có thể nghĩ rằng chính quyền vẫn thuộc về tay của họ Đỗ.
Sau khi Đỗ An Thụận mất thì thái phó Ngô Lý Tín làm phụ chính (TT). Nhưng Đỗ thái hậu tư thông với thiếu sư Mạc Hiển Tích, cho nên ngay cả Lý Tín không dám truy cứu khi vua ra lệnh xét việc kiện tụng của Hiển Tích .
Khi Ngô Lý Tín mất năm 1190, thái phó Đàm Dĩ Mông làm phụ chính (SL, TT). Có lẽ Dĩ Mông là người họ hàng của nguyên phi Đàm thị là mẹ đẻ của Huệ Tông. Cuối đời Cao Tông, vì có nhiều cuộc binh lọan xảy ra, nên Dĩ Mông bị thượng tướng quân Nguyễn Bảo Lương và thượng thư Lại bộ Từ Anh Nhĩ (SL-1203), hoặc người Đại Hoàng Giang (Ninh Bình ngày nay) là Phí Lang và Bảo Lương (TT-1203) đàn hặc. Nhưng năm 1206 Dĩ Mông được làm thái bảo, đội mũ củng thần (TT). Tháng 4 năm 1207 thì lại làm phụ chính (SL). Theo SL thì khi binh lọan xảy ra ngay trong triều đình vào năm 1209 và hoàng tử Sảm được họ Trần lập làm vua (Huệ Tông) ở thôn Lưu Gia vùng Hải Ấp thì Dĩ Mông được làm thái úy. Nhưng sau trở về phía chính quyền Cao Tông để đánh họ Trần. Khi chính thức lên ngôi (năm 1210) thì Huệ Tông với mẹ là Đàm thái hậu cũng đối lập với họ Trần, cho nên cho Dĩ Mông làm tháy úy một lần nữa và phong tước vương (cuối năm 1210), rồi cho nghe chính sự (tháng 7 năm 1211). Sau khi đánh nhau với họ Trần vào tháng 1 năm 1214 thì không thấy tài liệu nào nói về Dĩ Mông .
Khi Huệ Tông cuối cùng đầu hàng họ Trần vào năm 1216 thì Trần Tự Khánh làm thái úy, không gọi tên húy (SL) . Cuối đời Lý, một số nhân vật khác trong họ Trần (như Trần Thừa và Trần Thủ Độ) cũng được phong các danh hiệu, nhưng Tự Khánh có công lớn nhất để đánh dẹp các thế lực chống lại bằng vũ lực của mình. Khi Tự Khánh mất vào năm 1223 (được thụy là Kiến Quốc vương-SL) thì Trần Thừa làm phụ quốc thái úy, khong gọi tên húy (TT). Hai năm sau, nhà Lý bị cướp ngôi.
3.Cấu trúc của các thế lực dị tính
3.1. Những nhận xét trước đây
Về thiết chế chính trị thời Lý và diễn biến cụ thể của nó, có một số nhận xét khác nhau của các nhà sử học nước ngoài.
Chẳng hạn, Katakura Mionoru (Nhật) đã viết rằng: các triều đại cho đến nhà Trần chưa cai trị theo mô hình quan liêu trung ương tập quyền. Trung tâm cấu trúc của vương quyền có hòang đế như là một gia trưởng được các thành viên cùng huyết thống bao quanh. Trong tính cách của vương quyền, nguyên tác chi phối kiểu gia trưởng lấy hoàng gia làm trung tâm dược quán triệt (Katakura 1987: 462). Tác giả của bài này tán thành với nhận xét của Giáo sư Katakura ở chỗ coi trọng tính chất phi quan liêu của nền cai trị do các thành viên gia đình vua đảm nhiệm. Nhưng thuật ngữ “gia trưởng” ở đây là thuật ngữ duy vật lịch sử cũ, trước đây hay được sử dụng như “chế độ nô lệ kiểu gia trưởng” đối lập với “chế độ nô lệ tổng thể” . Chúng ta cần phân biệt thuật ngữ đó với thuật ngữ “chế độ gia trưởng”của phong trào giải phóng phụ nữ và giới học hiện đại sử dụng. Thuật ngữ “gia trưởng” trong giới khoa học duy vật lịch sủ trước đây quá hẹp vì nó không thể tách khỏi chế độ nô lệ. Còn thuật ngữ “chế độ gia trưởng” của giới học hiện đại thì quá rộng vì nó chỉ tất cả mọi hình thức của đàn ông chi phối đàn bà. Và hai thuật ngữ đều hình thành theo mô hình gia đình/giới phương Tây cho nên có vẻ không phù hợp với thực tế lịch sử phương Đông.
Taylor (Mỹ) viết rằng, từ đời Thần Tông trở về sau, các vua Lý chỉ là bù nhìn của các thành viên nam (clansmen) trong dòng họ phía mẹ, hoặc là “người trông coi” thể thống nhất văn hoá do các vua thời Lý sơ thực hiện (Taylor 1992: 147). Nói một cách khác, các vua Lý đã biến thành “vật thần” hoặc “biểu tượng”của các nhân vật có quyền lực thực sự (Taylor 1995: 75). Thế nhưng, khi viết các thành viên nam trong dòng họ phía mẹ thì giáo sư Taylor không chú ý đến sức mạnh riêng của phụ nữ như hoàng thái hậu có thể “tư thông” với đại thần (Momoki 2000: 194-195). Điều đó càng làm chúng tôi ngạc nhiên vì giới khu vực học Đông Nam Á của Mỹ từ sớm đã chú ý đến cấu trúc họ hàng song phương (bilateral kinship) và vai trò phụ nữ trong cấu trúc này của xã hội Đông Nam Á . Trong mô hình họ hàng song phương , huyết thống phụ hệ không có vị trí chi phối nhưng cũng không phải là chế độ mẫu hệ, hai bên phía bố và phía mẹ đều có sức mạnh nhất định, điều đó hay dẫn đến tình trạng là sức mạnh cá nhân (của đàn ông cũng như đàn bà) có sức quyết đình hơn huyết thống, nên người ta không quan tâm nhiều đến huyết thống bằng các xã hội có chế độ đơn hệ (monolineal system).
Cảnh Tuệ Linh (Đài Loan) đẫ nhấn mạnh quyền lực của các dòng họ (tính tộc). Chẳng hạn, theo cô Cảnh Tuệ Linh (2004: 284), thời gian một trăm năm từ giữa thế kỷ XI đến giữa thế lỷ XII là thời kỳ mà họ Quách (dòng họ của Lý Thường Kiệt) và họ Đỗ (dòng họ của Đỗ Anh Vũ) đã liên tục cầm quyền. Đồng thời, Cửu Chân Lê thị, một tập đoàn huyết thống hư cấu đồ sộ, cũng đã duy trì thế lực của mình, trong đó con cháu Lê Hoàn ở Ái Châu (Thanh Hoá) chiếm vị trí trung tâm, xung quanh đó có họ Lưu (dòng họ của Lưu Khánh Đàm) ở Ái Châu và các chi họ Lê ở các vùng khác, họ Lê ở châu Chân Đăng chẳng hạn (sách đã dẫn: 38-59, 86-93, 284-287). Lý Thái Tổ (mặc dù có mẹ thuộc họ Lê) đã bỏ Hoa Lư về Thăng Long không phải là vì vị trí Hoa Lư không thích hợp để xây dựng kinh đô mà lại có ý nghĩa hạ xuống vị trí của Ái Châu (nhằm cùng mục đích đó mà đổi Ái Châu và Hoàn Châu làm trại). Vì thế Ái Châu đã nổi dậy hai lần trong đời Thái Tông (năm 1029 và 1035). Nhưng Thái Tông (khi lên ngôi thì được sự giúp đỡ của Lê Phụng Hiểu là người Ái Châu) đã cho họ Lưu vào triều đình như là nội thị. Đến khi Thần Tông lên ngôi (với công lao của Lưu Khánh Đàm và Lê Bá Ngọc), Cửu Chân Lê thị đã thắng rồi (sách đã dẫn: 47, 56-58).
Các thế lực chính trị ở Thanh Hoá thật là quan trọng trong suốt các triều đại Việt Nam. Nhưng không có bằng chứng trực tiếp để coi con cháu Lê Lương (tổ tiên của họ Lưu – xem ghi chú 27) và Lê Phụng Hiểu đều thuộc dòng họ Lê Hoàn. Quan điểm của Cảnh Tuệ Linh về tập đoàn họ Lê đồ sộ (dù là hư cầu) chỉ dựa vào lý thuyết hoàn toàn lỗi thời như “nền thống trị bằng chế độ tính tộc phổ biến trong các dân tộc phía Nam từ thời Bách Việt”(sách đã dẫn: 39-47). Theo quan điểm khoa học xã hội hiện đại, ý kiến như thế chỉ có ý nghĩa rất chung chung là người ta đã lợi dụng các mối quan hệ huyết thống và hôn nhân. Vấn đề là quan hệ huyết thống và hôn nhân như thế nào.
3.2. “Gia đình” và “dòng họ” thời Lý
Về họ Đào, họ Quách, cũng như về họ Đỗ và họ Lê, không có tài liệu nào chứng minh rằng các họ đó có cấu trúc vững chắc như là tập đoàn huyết thống phụ hệ như mô hình tông tộc ở Trung Quốc hoặc mô hình ie (gia) ở Nhật Bản.
Dưới chế độ phụ hệ vững chắc, chuyện Lý Thái Tổ chỉ truy phong bố làm Hiển Khánh vương trong khi truy phong mẹ làm Minh Đức thái hậu (TT-1009) chắc khó hiểu. Không biết chỉ là ngẫu nhiên hay không, quyền lực Đỗ Anh Vũ cũng để lại tấm bia của mẹ (“Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh”xây năm 1157), không phải của bố. Bản thân Anh vũ được an táng ở lý Sùng Nhân lý, hương An Lạc là đất tổ phía mẹ (theo “Cự Việt quốc thái úy Lý công thạch bi minh tự”- Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr.191). Bia “Cự Việt quốc” không ghi gì về phả hệ bên nội của bố Anh Vũ là khảo tướng Đổ thị, lại viết bác cậu của khảo tướng là Lý Thường Kiệt và bố của Thường Kiệt là thái úy Quách công (Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr. 189). Đối với quyền lực của Anh Vũ, quan hệ bác cậu phía mẹ với Lý Thường Kiệt quan trọng hơn quan hệ với dòng họ bên nội (Taylor 1995: 62) .
Lý Công Uẩn khi ba tuổi được làm con nuôi của Lý Khánh Văn (TT), còn Đỗ Anh Vũ được làm con nuôi của thái sư Trương công tức Lê Bá Ngọc (Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr. 189). Chị em của Anh Vũ là Quỳnh Anh đã lấy chồng là viên ngoại lang Kim bộ họ Phạm và sinh con trai là Quốc Hiền. Nhưng Quỳnh Anh mất sớm nên Anh Vũ và mẹ Anh Vũ lấy Quốc Hiền làm con nuôi, sau khi lớn lên rồi được làm quan (“Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh”- Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, tr. 178). Nếu theo quan niệm Nho giáo thì nội tộc nên nuôi dưỡng Quốc Hiền (Ông bố đi đâu rồi? Đã ly dị hay sao?). Nhưng thực tế là bà ngoại và bác cậu ngoại đã nuôi. Thế mà quyền lực của Anh Vũ không được Quốc Hiền kế thừa, lại được Tô Hiến Thành (thành viên dòng họ phía vợ) rồi Đỗ An Thuận (con trai của anh họ) lần lượt kế thừa .
Thông qua truyền thuyết sinh đẻ của Lý Công Uẩn và quan hệ “tư thông” của Đỗ Anh Vũ (và có lẽ cả quan hệ hôn nhân của mẹ Anh Vũ và chị em Anh Vũ), chúng ta có thể nhận ra tình trạng chung của xã hội Đông Nam Á, cũng như tình trạng giống xã hội cổ đại Nhật Bản. Đó là tình trạng tính tự do của quan hệ nam nữ khá cao, mô hình vợ chồng cơ bản là vợ chồng một vợ một chồng nhưng ít được giữ gìn suốt đời, cả vợ lẫn chồng có quyền xóa bỏ hôn nhân, cho nên hôn nhân và gia đình đều không ổn định và dễ thay đổi. Tóm lại, đó là tình trạng mà lý luận duy vật lịch sử trước đây gọi là hôn nhân đối ngẫu.
Trong tình trạng như thế, quan hệ mẹ con ổn định hơn, vững chắc hơn so với quan hệ cha con. “Gia đình” có cấu trức nhiều lớp trong đó hạt nhân là sự kết hợp giữa mẹ con và người chồng (Yoshie 1995: 244; Akashi 2006: 233). Vì kết cấu gia đình phức tạp và không ổn đình, nên tập đoàn dòng họ (thị tộc) như kết hợp thị tộc ở Trung Quốc trước thời Đường (Osawa 2005: 63-68) và uji (thị) ở Nhật Bản thời cổ đại (Yoshie 1986; Akashi 1990: phần II chương 2, phần III chương 1) chắc có nhiều ý nghĩa hơn gia đình với ý nghĩa hẹp như là đơn vị xã hội Nhưng các tập đoàn dòng họ đó không phải là tàn dư của chế độ cộng sản nguyên thủy, cũng không phải là tập đoạn huyết thống phụ hệ thuần túy. Chúng lại là tập đoạn mà tính thống nhất không cao, được cấu trúc theo động cơ chính trị. Quan hệ họ hàng có khuynh hướng “song phương” (bilateral) , cho nên không những dòng họ phía bố mà còn dòng họ phía mẹ đóng vai trò lớn khi giải quyết các vấn đề như các con cháu thuộc về phía nào hoặc kế thừa tài sản như thế nào (Akashi 1990: phần II chương 2, phần III chương 1).
Ngay ở Trung Quốc từ đời Nam Băc Triều cho đến thời Đường, tự do quan hệ nam nữ và kết hợp hôn nhân lỏng lẻo cũng phổ biến (những cái “ghen” của người vợ hay hạn chế được ý muốn của người chồng có quan hệ với đàn bà khác cùng một lúc). Đàn bà không sợ ly dị vì có quyền sở hữu tài sản và sức mạnh có thể mang con mình theo khi lấy chồng mới (không cho phía chồng bắt giữ con cái). Thế tộc (dòng họ của vợ) cũng có sức ảnh hưởng lớn (Osawa 2005: chương 1-2).
Nếu các tập đoàn dị tính thời Lý và quan hệ nam nữ ở đó cũng mang tính chất như trên, quan hệ bố nuôi – con nuôi (giả phụ tử) và quan hệ anh em kết nghĩa (nghĩa huynh đệ) đóng vai trò tích cực để bổ sung cho cấu trúc gia đình – dòng họ không ổn định như ý kiến của giáo sư Katakura (1987: 462). Quan hệ vua – cận thần mang tính chất tư nhân (thể hiện do các quan nội thị và túc vệ) cũng vậy. Thông qua các mối quan hệ như thế, các nhân vật dị tính có thể nổi lên, trong đó tiêu biểu nhất là Lý Thượng Kiệt và Đỗ Anh Vũ,
Tài liệu tham khảo
1. Đại Việt sử ký tòan thư (3 tập), Trần Kinh Hoà hiệu định, Tokyo Daigaku Toyo Bunka Kenkyusho, 1984.
2. Đại Việt sử lược, Trần Kinh Hoà hiệu định, Tokyo: Soka Daigaku Ạjia Bunka kenkyusho, 1987.
3. Thơ văn Lý-Trần tập I, Viện Văn học dịch và chú thích. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 1977.
4. Thiền uyển tập anh, bản in năm 1715 của Viện Hán Nôm, ký hiệu VHv1267.
5. Văn khắc Hán nôm Việt Nam tập 1, Phan Văn Các- Claudine Salmon (chủ biên), Hà Nội; viện Nghiên cứu Há Nôm – Trường Viễn Đông Bác cổ, 1998.
6. Việt điện u linh tập lục, Việt Nam hán văn tiểu thuyết tùng san tập 2 quyền 2, Đài Bắc: Đài Loan Học sinh Thư cục, 1992.
* * * * * *
7. Poliacốp, A.B.(Vũ Minh Giang và Vũ Văn Quân dịch) 1996. Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV, Hà Nội: Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia.
8. Momoki Shiro (Nguyễn Tiến Lực dịch) 2000A. Về vấn đề phận kỳ lịch sử Việt Nam tiền cận đại, Nghiên cứu Lịch sử 2000 (1), tr. 70-79.
9. Momoki Shiro 2000B. Gia đình của các vua nhà Lý và sự xuất hiện của vương triều phụ hệ, trong Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Việt Nam học, kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, 15-17.7.1998. tập I, Hà Nội: Nhà Xuất bản Thế giới, tr. 255-272.
10. Hoàng Xuân Hãn. 1949. Lý Thượng-kiệt - Lịch sử Ngoại giao Triều Lý -. Hà Nội: Sông Nhị.(Nxb Hà Nội, 1996)
11. Poliacốp, A.B.(Vũ Minh Giang và Vũ Văn Quân dịch) 1996. Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV, Hà Nội: Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia.
Lâm Giang 2000. Tấm bia đời Lý viết về Lưu Khánh Đàm, Tạp chí Hán Nôm số 45, tr. 80-84.
12. Lâm Giang 2002. Tìm hiểu Lưu Khánh Đàm qua tư liệu Hán Nôm hiện có ở địa phương, Tạp chí Hán Nôm số 55, tr. 17-22.
13. Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn (biên sọan) 1960. Lịch sử chế độ phong kiện Việt Nam tập I, Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục.
14. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 2001. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Ly Công Uẩn và vương triều Lý (kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội), Hà Nội: Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Viện Khảo cổ học 2006. Hoàng thành Thăng Long, Thang Long Imperial Citadel, Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin.
16. Viện Sử học 1981. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý-Trần. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
17. Viện Sử học 1984. Thế kỷ X, những vấn đề lịch sử, Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
18. Viện Sử học 2002. Lịch sử Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XV, Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
19. Vũ Tuân Sán. 1965. Góp thêm tài liệu về việc định đô Thăng-long và về gốc tích Lý Thưòng Kiệt, Nghiên cứu Lịch sử số 75, tr. 4-9.
* * * * * *
20. Akashi Kazunori 1990. Nihon Kodai-o Shinzoku Kozo (Cấu trúc thân thích trong thời cổ đại ở Nhật Bản), Tokyo: Yoshikawa Kobunkan.
21. Akashi Kazunori 2006. Kodai Chusei-no Ie-to Josei (Gia đình và phụ nữ trong thời cổ trung đại), Tokyo: Azekura Shobo.
22. Cảnh Tuệ Linh 2004. Việt Nam sử luận: Kim thạch tư liệu chi lịch sử văn hoá tỷ giảo, Đài Bắc: Tân văn phong Xuất bản Công ty.
23. Fujiwara Riichiro 1987. Betonamu Richin-cho Kansei-ko (Tìm hiểu quan chế thời Lý-Trần), Shiso (Trường Đại học nữ Kyoto) 44:1-16.
24. Hamanaka Noboru 1992. Korai Shoki Sonraku-no Seikaku-o Megutte (Về tính cách làng xã trong giai đoạn đầu của vương trỉều Cao Lệ), Chosen Gakuho 144: 29-50.
25. Hoshina Sueko 2002. Tenshhi-no Kokyu: Kandai-no Jukyo-teki Kogo-ron (Đối tác thiên tử: Quan niệm Nho giáo thời Hán về hoàng hậu Hán), Toyoshi Kenkyu (Journal of Oriental Research, Trường Đại học Kyoto) 61(2): 1-30.
26. Katakura Minoru 1987. Betonamu Zenkindaiho-no Kisoteki Kenkyu (Nghiên cứu cô sở về luật pháp Việt Nam trước cận đại), Tokyo: Kazama Shobo.
27. Makino Tasumi 1978. Annan-no Reicho Keiritsu-ni Arawareta Kazoku-seido, Makino Tasumi Chosaku-shu 2 (Chế đọ gia đình được thể hiện trong Lê Tiều hình luật của nước An Nam, trong Tuyển tập Makino Tasumi tập 2), Tokyo: Ochanomizu Shobo, tr. 205-234. (đầu tiên công bố năm 1934)
28. Makino Tasumi 1985. Toa Beisaku Minzoku-ni okeru Zaisan Sozokusei-no Hikaku, Makino Tasumi Chosaku-shu 4 (Nghiên cứu so sánh chế độ kế thừa tài sản của các dân tộc có văn minh lúa nước ở khu vực Đông Á, trong Tuyển tập Makino Tasumi tập 4),Tokyo: Ochanomizu Shobo, tr. 215-306. (đầu tiên công bố năm 1950-1952)
29. Momoki Shiro 1987. Betonamu Richo-no Gunji Kodo to Chiho Shihai (Hoạt động quận sự và thống trị địa phương của nhà Lý), Tonan Ajia Kenkyu (Southeast Asian Studies, Trường Đại học Kyoto) 24(4):403-417.
30. Nguyen Ngoc Huy, Ta Van Tai (translated and annotated). 1987.The Le Code: Law in Traditional Vietnam, 3 vols. Athens (Ohio): Ohio University Press.
31. Osawa Masaaki 2005. Toso Jidai-no Kazoku, Kon’in, Josei (Gia đình, hôn nhân và phụ nữ trong thời Đường – Tống), Tokyo: Akashi Shoten.
32. Sakurai Yumio (Keith W. Taylor ed., Thomas A. Stanley trans.) n.d. Land, Water, Rice, and Men in Early Vietnam: Agrarian Adaptation and Socio-Political Organization.
33. Shimokura Wataru 2001. Kandai-no Haha-to Ko, Tohoku Daigaku Toyoshi Ronshu (Người mẹ và người con thời Hán, Tạp san Lịch sử Phương Đong của Trường Đại học Tohoku) 8: 1-53.
34. Takahashi Yoshiro 2007. Shoku-wa Dareno Mono-ka: Nansodai-o Kiten-ni Shite (Tài sản “trang khu” thuợc về ai?: lấy đời Nam Tống làm xuất phát điểm), Shiho 40: 23-39.
35. Taylor, Keith W. 1986a. Authority and Legitimacy in 11th Century Vietnam, in Marr, David G. and A.C.Milner (eds.) , Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, pp. 139-176.
36. Taylor, Keith W. 1992. The Early Kingdoms, in Nicholas Tarling (ed.), Cambridge History of Southeast Asia, vol 1: From Early Times to c. 1800, Cambridge University Perss.
T37. aylor, Keith W. 1995. Voices Within and Without, in Taylor, Keith W. and John K. Whitomore (eds.). Essays into Vietnamese Pasts. Ithaca: Cornell University Press, pp. 59-80.
38. Wolters, Oliver W. 1976. Le Van Huu’s Treatment of Ly Than Ton’s Reign (1127-1137), in Cowan, C.D. and O.W. Wolters (eds.). Southeast Asian History and Historiography, Ithaca: Cornell University Press 1976, pp.203-226.
39. Wolters, Oliver W. 1999. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives(revised ed.), Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
Yamamoto Tatsuro (chủ biên) 1975. Betonamu-Chugoku Kankei-shi (Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc), Tokyo: Yamakawa Shuppansha.
40. Yoshie Akiko 1986. Nihon Kodai-no Uji-no Kozo (Cấu trúc dòng họ trong thời cổ đại ở Nhật Bản), Tokyo: Yoshikawa Kobunkan.
41. Yoshie Akiko 1995. Kodai-no Kazoku-to Josei, Iwanami Koza Nihon Tsushi 6 (Kodai 5) (Gia đình và phụ nữ trong giai đoạn cổ đai, trong Thông sử Nhật Bản tập 6: cô đại 5), Tokyo:Iwanami Shoten, tr. 213-247.
42. Yu Insun. 1990. Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam, Seoul: Asiatic Research Center, Korea University.