(Qua giải mã một vài biểu tượng tín ngưỡng và huyền tích nữ thần)
Lâm Thị Mỹ Dung
Tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam theo GS. Trần Quốc Vượng có ba đặc điểm chính: 1. Sự hỗn dung tôn giáo; 2. Đạo thờ cúng Tổ tiên; 3. Tâm thức vật linh- Đa thần. Thần điện dân gian Việt về cơ bản hình thành từ cơ tầng tín ngưỡng Đông Nam Á của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước với cơ cấu kinh tế tiểu nông mà trong đó người phụ nữ có vai trò rất lớn. Người phụ nữ làm nông nghiệp chẳng kém gì đàn ông, là người nắm “tay hòm chìa khoá” và nuôi dưỡng con cái.
Một số học giả như Phạm Quỳnh, Từ Chi, M.Durand và P. Huard- toàn đàn ông cả Việt, cả Tây- đã đưa ra công thức nổi tiếng về gai đình của người Việt: “Người chồng trị vì, người vợ cai quản”.
Một số học giả như Phạm Quỳnh, Từ Chi, M.Durand và P. Huard- toàn đàn ông cả Việt, cả Tây- đã đưa ra công thức nổi tiếng về gai đình của người Việt: “Người chồng trị vì, người vợ cai quản”.
Do và từ nhiều nguyên nhân/điều kiện xã hội, tự nhiên, lịch sử... mà Thần điện dân gian Việt nam bị nhiều những lớp văn hoá tôn giáo từ bên ngoài (Phật - Đạo - Nho...) phủ lấp. Những tôn giáo này đậm dương tính đã là thách thức lớn đối với tín ngưỡng bản địa của người Việt vốn là tín ngưỡng nông nghiệp đậm âm tính. Tuy vậy, Tam giáo đã không thể làm mất đi tâm thức vật linh- cơ nền của tín ngưỡng bản địa Việt. Mặc dù bị các tôn giáo bên ngoài tác động - cưỡng bức hay tự nguyện - những tín ngưỡng này phần nào đã bị biến đổi. Song ý niệm biểu tượng về căn bản thay đổi không đáng kể. Nổi bật trong hệ thống này chính là tín ngưỡng nữ thần với nhiều biểu hiện khác nhau. Việc thờ nữ thần có gốc gác đa dạng- nhân thần, nhiên thần, thiên thần...- dù đã được dung hoá ở các cấp/mức độ khác nhau với những văn hoá, tôn giáo... bên ngoài - cũng chính là biểu tượng thể hiện vị thế của người đàn bà Việt- ảo - thực/ thiêng - phàm - trong đời sống gia đình và xã hội. GS. Trần Quốc Vượng đã gọi đó là “Nguyên lý Mẹ” của nền văn hoá Việt Nam.
Biểu tượng 1: Mỵ Châu (1)
Những truyền thuyết lưu truyền về Mỵ Châu dù có những biến thể khác nahu do xuất hiện không đồng đều trong thời gian, không gian và đã bị ảnh xạ qua lăng kính phụ hệ đều đồng thanh xác nhận rằng Nàng là người được giao trọng trách trông và cất Nỏ thần - và cho dù đây là nguyên nhân chính của bi kịch tình yêu - bi kịch lịch sử thì cũng chính là chìa khoá để giải mã biểu tượng văn hoá - biểu thị vai trò cao của người đàn bà và tính cách truyền dõi theo dòng mẹ của xã hội Việt thời cổ và ảnh hưởng của nó ở những giai đoạn lịch sử muộn hơn.
Biểu tượng 2: Âu Cơ
Truyền thuyết về nguồn gốc của người Việt và quá trình hoà hợp/đối kháng của hai bộ phận dân cư miền cao và miền thấp - theo tư duy lưỡng phân/lưỡng hợp - cho thấy vai trò mang tính ưu thế của yếu tố nữ - dòng mẹ: 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi (tức là ở lại đất Tổ Phong Châu) - Làng Cả và suy tôn một người làm Vua (Vua Hùng), 50 con theo Cha Lạc Long Quân xuống biển. Sơn Tinh (Thánh Tản Viên - Ba Vì) ban đầu theo cha xuống Biển sau vì nhớ mẹ lại ngược sông về non theo Mẹ, để rồi luôn là vị Thánh đứng đầu trong Tứ Bất Tử của người Việt “Nhất cao là núi Tản Viên”...
Mặc dù ở những lớp phủ muộn hơn ta đã thấy quan điểm phụ hệ được điểm xuyết vào một cách lộ liễu - thông qua sự tích tết mùng 8 tháng 3 âm lịch ở vùng Hát Môn (huyện Phúc Thọ, Hà Tây). Vùng này còn tục nặn 100 viên bánh trôi, hình bầu dục, để tưởng nhớ đức Quốc tổ Lạc Long Quân và Âuu Cơ đã sinh trăm trứng. Làm lễ xong, người ta lấy 49 viên bánh cho vào chiếc thuyền bằng lá thả xuống sông Hát, cho thuyền trôi ra biển, gưỉ xuống Long cung với ý, đó là 49 người con trai theo Lạc Long Quân về biển (một con ở lại làm vua mặt đất, và 50 con theo Âu Cơ lên rừng).
Vua Hùng - Tổ dựng nước là ở trong số các con theo Mẹ. Chỉ mãi đến cuối thế kỷ 19 các tác giả sách “Việt sử thông giám cương mục” mới “chữa” lại là theo Cha ! đó là sự xuyên tạc “giả dân gian” (fakelore) về Truyền thuyết khởi nguyên. (Trần Quốc Vượng 1996: 43).
Biểu tượng 3: Man Nương và Tứ Pháp
Phật giáo cũng như nhiều tôn giáo và hệ tư tưởng khác khi du nhập vào Việt Nam bằng các cách thức và con đường khác nhau đều được tiếp biến/giao thoa hay “vượt gộp” theo từng mức độ với những tín ngưỡng, triết lý bản địa. Trong “Lĩnh Nam chích quái” còn ghi lại chuyện Man Nương và Khâu Đà La (2), được giải mã một cách cơ bản như một sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và Phật giáo chính thống, để tạo ra Phật giáo Dâu - SƠN MÔN DÂU rát riêng, rất độc đáo. Tính riêng, tính độc đáo thể hiện ở yếu tố Nữ áp đảo - Một PHẬT MẪU MAN NƯƠNG, một hệ thống TỨ PHÁP: VÂN - VŨ - LÔI - ĐIỆN cũng toàn bà. Đây được coi là đặc điểm chung của tín ngưỡng vIệt. Cũng là biểu hiện của cái Sinh (Phồn thực Thiêng), chất Mẹ của người Việt cực kỳ sâu đậm bát chấp cả Phật giáo lẫn Khổng giáo. Đó chính là cốt lõi tâm hồn Việt, cái cốt lõi đó được bảo tồn trong dân gian. (Nguyễn Duy Hinh 1996: 210-213).
Có thể còn những cách giải mã khác nữa song đó lại là chủ đề của một nghiên cứu sâu. Chỉ xin lưu ý những từ in đậm trong đoạn trên để minh giải rõ hơn ý tưởng khi Phật giáo Ấn Độ (dương tính) tới nơi mà người đàn bà nắm vị trí chủ chốt đã buộc phải làm một sự dung hoà để có thể hội nhập. Tín ngưỡng bản địa của cư dân trồng lúa nước - biểu tượng là hòn đá cầu mưa thành Thạch Quang Phật, các phụ tính thiêng liêng của thần trở thành các Phật Mây, Mưa, Sấm, Chớp lấn át các Phật chính thức, tất cả có uy vũ đến đâu cũng phải chịu tôn xưng Man Nương là Tổ. (Tạ Chí Đại Trường 1989: 86-87).
Biểu tượng 4: Bà Chúa Ba - Phật Bà Quan Âm.
Những nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng một trong những đặc điểm của Phật giáo dân gian Việt Nam là tính Nữ nổi trội. Phật điện của chùa Việt có tới hàng trăm các vị Phật, đó là chưa kể những đại diện của Nho - Đạo - Tín ngưỡng dân gian khác, song cũng chỉ một Bà được dân kính nhớ: Quan Âm, thường được gọi bằng cái tên giản dị - Phật Bà.
Khởi nguyên Quan Âm hay Quan Thế Âm (Avalokitesvara), một trong hai Bồ tát phụ tá Phật A Di Đà mang dạng Nam. Rồi được nữ hoá trên đất Trung Hoa, nhất là từ thời Tống. Và không hẳn như một số nhà nghiên cứu Việt Nam khẳng định nguyên nhân nữ hoá là do khi nhập vào Việt Nam của cư dân nông nghiệp lúa nước, luôn đề cao bà Mẹ Đất và bà Mẹ Nước ... nên vị Bồ tát này đã được Việt Nam hoá để trở thành Phật bà Quan Âm (Nguyễn Minh Hoàng 1996: 58). Cũng không cần bàn nhiều về quá trình chuyển hoá này, chỉ cần lưu ý rằng do tính chất và vai trò của mình, Phật Bà quan Âm đã đáp ứng trọn vẹn những ước muốn, tâm tư của người Việt và đã được dung hoá nhiều lần với những nữ thần dân gian - những Bà, những Mẹ, những Mẫu, để rồi trong tâm thức dân gian chỉ còn đọng lại hình tượng Bà Quan Âm. Bà át cả Ông, đến nỗi người ta quên cả sự tồn tại của Quan Âm nam tính trong Phật điện Việt Nam. (Nguyễn Duy Hinh 1996: 213-214).
Khu di tích Hương Sơn gắn liền với sự tích Bà Chúa Ba - Phật Bà Quan Âm - hay Đức Nam Hải Quán thế âm mà bản Diễn ca gắn với vị Phật này được giải mã như một sự tổng hợp cả tín ngưỡng Tam giáo với truyền thống dân tộc mà nổi bật lên là thế ứng xử Hiếu - Nhân của con người. (Nguyễn Minh Hoàng 1996: 60).
Hương Sơn là cả một tổng thể - hay phức thể tôn giáo - văn hoá Việt nam cổ truyền. Ở toàn thể khu vực này, đặc biệt là ở khu vực Tuyết Sơn còn nhiều đền thờ Mãu Đệ nhị - Thượng ngàn (Bà Chúa Rừng xanh và Thế giới người đã khuất). Một số nhà nghiên cứu đã nhận định khá hợp lý rằng Bà Chúa Ba khu Hương Sơn là một hoá thân theo Phật đạo của Mẫu Thượng Ngàn. Một ví dụ tuyệt vời về sự dung hoá nhuần nhuyễn giữa cái nội sinh và cái ngoại sinh.
Và cũng không phải chỉ là một Phật Bà Việt như Bà Chúa Ba này, có thể kể một số trường hợp khác như Bà Trắng Chùa Dâu, các Thánh Mẫu... rồi cả Ỷ Lan Thái Phi được đồng nhất với Phật Quan Âm.
Biểu tượng 5: Bà Chúa KhoNhững thần nữ trong tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc đa dạng và ở mỗi khu vực khác nhau lại có những biến thái khác nhau. Trường hợp Bà Chúa Kho cũng nằm trong thông lệ đó. Ở châu thổ Bắc Bộ có hai nơi thờ tự Bà: Giảng Võ, Hà Nội và Cổ Mễ, Bắc Ninh. Huyền thoại về hai Bà mang những nét chung và riêng với huyền thoại về các nữ thần của người Việt.
Huyền thoại kể lại rằng cả hai Bà sinh thời đều làm nghề giữ kho, đều hoàn thành công việc xuất sắc, xứng đáng được lưu danh sử sách, đáng được muôn đời ghi nhớ. Huyền tích cũng nhấn mạnh vai trò nội tướng của các Bà Mẹ Việt trong cả sự nghiệp dựng/khai phá và giữ nước.
Dù rằng tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở cả hai nơi đã được hội nhập với những tín ngưỡng dân gian khác... đặc biệt là tín ngưỡng Tam Toà - Tứ Phủ... song không vì thế mà vai trò của các Bà bị lu mờ. Ngược lại sự phối tự này (rất Việt) đã làm nổi bật vị trí trung tâm của bà Chúa Kho trong hệ thống thần linh Việt đầy tính nữ.
Biểu tượng 6: Mẫu Liễu Hạnh - Thiên Y A Na - Bà Chúa Xứ - Bà Đen...
Đạo thờ Mẫu
Theo Ngô Đức Thịnh tục thờ Mẫu “... hình thành và định hình đầu tiên ở Bắc Bộ, sau đó theo chân cư dân Việt vào Nam, hoà nhập với thần linh địa phương mang tính độc đáo, địa phương ở Huế, ở Nam Bộ...” (Ngô Đức Thịnh 1992: 17).
Khởi nguyên là tín ngưỡng thờ Mẹ: Mẹ Xứ sở, Mẹ Đất, Mẹ Nước... rồi theo dòng lịch sử qua sự hội nhập với các tín ngưỡng, tôn giáo và hệ tư tưởng khác mà đã hình thành Đạo thờ Mãu độc đáo với Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Tục thờ mẹ hiện diện ở nhiều dân tộc, mỗi một nơi lại có một bà Mẫu khởi nguyên, xem đó là tổ tiên của mình. Mẫu Âu Cơ của người Việt, Mẫu Thiên Y A Na của người Chăm... Và trong quá trình phát triển các tín đồ Mẫu lại tiếp nhận và tôn thờ thêm những hình tượng khác và Điện thờ Mẫu không phải chỉ có một vị Mẫu mà gồm nhiều vị. Diện mạo Mẫu khá đa dạng cả về nguồn gốc lẫn thành tích và công trạng, cũng như sự “hiển linh”. Hệ thống thần điện gồm nhiều nhiên thần và nhân thần trong đó có khá nhiều các nhân vật lịch sử - văn hoá không chỉ của tộc người Việt. Quá trình hội nhập và dung háo giữa các Mẫu Việt đặc biệt là Thánh Mẫu Liễu Hạnh với các thần nữ - các Bà Mẹ Xứ sở của một số tộc người khác trong diễn trình lịch sử đã tạo ra nhiều hiện tượng độc đáo.
Hình tượng Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào thế kỷ 16 được nhiều nhà nghiên cứu gắn với sự quay trở về Nguyên lý Mẹ của văn hoá Việt cổ truyền. là sự phản kháng của dân gian chống lại tư tưởng độc tôn Nho giáo, trọng nam khinh nữ. Mẫu Liễu Hạnh còn là một trong những vị thánh “Tứ Bất Tử” Việt. Có thể còn có những nguyên nhân khác để giải thích sự phổ biến sâu rộng của vị nữ thần này như sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo, của Nội Đạo và sự phát triển của thương mại đường biển... Dù lý do nào đi nữa chúng ta phải ghi nhận khuynh hướng thời đại lúc bấy giờ là tôn sùng nữ thần.
Trên Điện thần Mẫu, Mẫu Liễu Hạnh được đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên - Tiên Thiên Thánh Mẫu - lực lượng sáng tạo ra trời và đặt ra cách vận hành của bầu trời. Huyền tích về Bà chứa đựng những yếu tố phàm mà thiêng, bình thường mà phi thường. Bà là biểu tượng cho sức giải phóng, ý thức tự do và lòng nhân đạo của phụ nữ.
Hinh tượng Thiên Y Ana Ngọc Diễn Phi
Thiên Y Ana (YANGSPIRO NEGARA) tức Bà Mẹ Xứ sở (tiếng Việt) là vị nữ thần nổi tiến của người Chăm. Nơi thờ chính là Tháp Bà - Nha Trang, Khánh Hoà (3). Tại miền Trung, còn nhiều đền thờ Bà mẹ Xứ sở và thường được người Viẹt gọi tắt là đền bà “Yang” - Giàng như kiểu lùm Bà Dàng, đồi Bà Giàng, xứ Bà Yang...
Sự đồng cảm giữa hai tộc Việt - Chăm có cùng một cơ sở tín ngưỡng nông nghiệp thờ Mẹ đã là nguyên nhân chính của sự xuất hiện những Mẫu hai hoà Một - kết quả của sự dung hợp cả hai nền văn hoá. Có thể kể tới vị thần Nữ Tối Thượng ở Điện Hòn Chén rồi chùa Thiên Mụ - Huế, rồi tiếp theo hàng loạt là những Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi được thờ suốt dọc miền Trung. Uy thế của vị Nữ thần này thật sự sâu rộng và bên cạnh những cụm di tích thờ cúng có qui mô lớn như Điện Hòn Chén - Huế, Tháp Bà - Nha Trang hay những đền thờ riêng lẻ thì vị thần này được phối thờ rất nhiều, rồi lại được triều đình phong kiến sắc phong làm thần Thành hoàng của nhiều làng ở Miền Trung Việt Nam. Tư liệu điền dã của chúng tôi tháng 2 năm 2002 cho thấy trong bộ sắc phong gồm 34 đạo sắc đình Nam Thọ - Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng có niên đại từ Minh Mạng đến Bảo Đại thì đã có tới 5 đạo sắc của Bà Chúa Ngọc. 5/25 đạo sắc từ Minh Mạng đến Khải Định của đình Tuý Loan, xã Hoà Phong, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng là của Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi . Tục thờ nữ thần in đậm đến mức từ tượng thần nam (Kubera - Chăm) được biến thành tượng Nữ thần - Phật Bà như ở Hội An mà chúng tôi đã phát hiện trong đợt điền dã tháng 8 năm 1989.
Ngay cả ở miền Bắc cũng lưu giữ vết tích Thiên Y A Na và những Nữ thần khác của dòng văn hoá Chăm chảy ngược được hội nhập vào văn hoá Việt dù không hoàn toàn tự nguyện, và tất nhiên cũng đã được Việt hoá theo cả hai cách Chính thông và Dân gian. Đó là trường hợp thần hậu thổ (thời Lý) ở Thăng Long với những danh hiệu phong tặng “Hậu thổ Địa kỳ Nguyên quân” năm 1258; “Nguyên Trung” năm 1288; “Ứng Thiên Hoá Dục” năm 1313. Huyền tích và tên gọi gợi nhắc nguồn gốc và tính chất Chăm của thần (Tạ Chí Đại Trường 1989: 114-115). Trường hợp nữa là vị thần được thờ ở Châu Lâm tự (tên nôm là chùa Bà Đanh-Bà Banh) cũng ở Thăng Long - thời Lê. Đây là nữ thần Po Yan Dari của người Chăm được Việt hoá. Nói như vậy để thấy một điều nữ thần ngoại tộc do đáp ứng được những yêu cầu sâu thẳm của đời sống tâm linh dễ được hội nhập và phổ biến rộng rãi hơn.
Hình tượng Bà Chúa Xứ, Bà Đen...
Bà Chúa Xứ có nguồn gốc ở Châu Đốc, điện thờ chính ở núi Sam (Châu Đốc - An Giang) có cùng gốc với Chúa Ngọc, Chúa Tiên, là biến thiên của Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi song đã được Nam Bộ hoá. Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen), điện thờ chính ở núi Bà Đen (Tây Ninh) lại là kết quả của sự hội nhập các yếu tố Khmer - Hoa - Phât... Những vị thần này cùng với hàng loạt các vị nữ thần địa phương khác có mặt thường nhật trong đời sống gia đình và xã hội của các cộng đồng cư dân Nam Bộ. Tín ngưỡng thờ Nữ thần in đậm dấu ấn trong tục thờ cúng ở gia đình, ở lễ hội, ở đình, chùa miếu...
Kết luận
Chỉ qua một vài biểu tượng chọn lựa ngẫu nhiên đã thấy sự đa dạng, đa nghĩa của các biểu tượng nữ thần. Bài viết do yêu cầu của đề tài cũng không đíi sâu vào việc phân tích nguồn gốc, tính chất và các lớp văn hoá khác nhau của mỗi một biểu tượng. Có thể thấy rằng cơ tầng văn hoá sâu và lâu bền nhất của người Việt thiên về tính nữ. Tính nữ bền vững tới mức dù chịu áp lực rất lớn của những hệ tư tưởng và tôn giáo từ bên ngoài của các dòng phụ hệ Đông và Tây để rồi lớp vỏ phải thay hình đổi dạng, thì vẫn bao bên ngoài của cái “Lõi Việt”. Khi ảnh hưởng của Nho giáo gia tăng, vai trò của người phụ nữ thực suy giảm, ta lại thấy có xu hướng gia tăng của tín ngưỡng thờ nữ thần. Theo thóng kê có tới 75 nữ thần chính. Trong Hội Chân Biên - một phái của đạo Nội, tuy tổ sư là một tiên ông (Chử Đồng Tử), nhưng tổng số nam thần chỉ là 13 so với 14 thần nữ. Nhiều đình làng Thành Hoàng là Nữ thần và như vậy có một nghịch lý giữa cái thực và cái thiêng, giữa phàm và ảo khi lui tới chốn đình chung trước đây chỉ là những người đàn ông!
Xã hội Việt, Văn hoá Việt đã trải qua bao thăng trầm, đã biết bao lần hội nhập, dung hoá với những luồng văn hoá, văn minh song vẫn lưu giữ cơ tầng bản địa với nguyên lý trọng Nữ (cả từ trong vô thức chứ không chỉ ý thức). Truyền thuyết về việc 50 người con theo Mẹ Âu Cơ ở lại vùng núi, lập Quốc, việc Trọng Thuỷ ở rể và Mỵ Châu coi giữ nỏ thần, hiện tượng Hai Bà Trưng, Bà Triệu... tín ngữơng thờ Nữ thần... đã chứng thực điều đó.
Cũng không rõ tại sao những nơi thờ nữ thần (bất kể có tên tuổi hay không) thường đông đúc và có xu thế ngày càng tấp nập. Có thể lấy ví dụ về Bà Chúa Kho, Bắc Ninh. Mẫu Liễu- Phủ Tây Hồ, hà Nội hay Bia Bà, hà Đông hiện nay...
Chú thích
1/ Mỵ Châu - theo nhiều nhà nghiên cứu không hẳn là tên riêng mà là tên chung của các bà chúa - mệ nàng theo kiểu Mị - Mê - Mệ, trong những tên gọi như Me - Ku nữ hoàng Lava, Mị Châu, Mị Nương... (Tạ đức 1999: 338).
2/ Thời Sĩ Nhiếp (Tây Hán) làm thái thú Giao Châu (178-226), nhà sư ấn Độ A-Đà-La (Khâu Đà La) tới trị sở của Sĩ Nhiếp ở Luy Lâu, được một người mộ đạo mời về nhà mình ở. Cô con gái (Man Nương-tên chỉ người đàn bà bản xứ) mang thai (không theo kiểu thông thường - mà là sự thai sinh gián tiếp trong không khí thần bí - kiểu thiêng hoá yếu tố phàm, ảo hoá yếu tố thực), sinh con gái, bế đi tìm trả Khâu Đà la. Sư niệm chú cho một cây lớn tách đôi ra, đặt đứa bé vào giữa hai mảnh cây khép lại. Bão giật đổ cây, nước lũ cuốn đến thành Luy Lâu. Sĩ Nhiếp cho kéo cây lên bờ, nhưng không được. Man Nương đến đẩy nhẹ, cây tự lăn lên bờ. Sĩ Nhiếp sai lấy gỗ tạc bốn pho tượng Tứ Pháp - tượng Nữ thần. Gặp năm hạn hán, ông cho bày 4 pho tượng ra làm lễ cầu đảo. Lễ xong, mưa to gió lớn, sấm chớp. Các tượng được đưa vào chùa dâu, chùa Đậu, chùa phi Tướng, chùa Trí Quả. đứa bé trong thân cây hoá đá (Thạch Quang Phật) đặt trước tượng Pháp Vân.
3/ Nữ thần Nagar (Thiên Y A Na) giáng sinh nhập vào cây gỗ trầm hương trôi trên biển. Gặp và kết hôn với một người, sinh hai con. Sau về với người Chăm và lên ngôi gọi là Po Nagar (Bà Chúa Xứ sở). Đền thờ ở tháp Bà Nha Trang.
Tài liệu sử dụng
1/ Tạ Đức 1999. Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn. Hội dân tộc học Việt Nam. Hà nội.
2/ Trần quốc Vượng 1996. nguyên lý Mẹ của nền văn hoá Việt Nam. Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật. Số 150. Hà Nội.
3/ Nguyễn Duy Hinh 19996. về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam. Trong Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay. NXBKHXH. Hà nội.
4/ Tạ Chí Đại Trường 1989. Thần, Người và Đất Việt. Văn Nghệ. California.
5/ Nguyễn Minh Hoàng 1996. Tư tưởng Phật giáo Việt Nam qua truyện Bà Chúa Ba - Phật Bà Quan Âm. Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật.Số 144. Hà Nội.
6/ Ngô Đức Thịnh 1992. Tục thờ Mẫu Liễu Hạnh - một sinh hoạt tín ngưỡng - văn hó acộng đồng. Tạp chí Văn hoá. Số 5. Hà Nội.
Lâm Thị Mỹ Dung
Được đăng bởi DzungLam vào lúc 17:14