Shawn Mc Hale
Đặng Thị Vân Chi dịch từ:Taylor KW and Jonh. K.Whitmore(1995), Editor. Essays in to Vietnamse pasts. Cornel University NewYork.
Đặng Thị Vân Chi dịch từ:
3. Các trang báo của Nữ giới chung năm 1918
Nữ giới chung là tờ báo phụ nữ
đầu tiên của của phụ nữ Việt Nam. bà Sương Nguyệt Anh (?-1921), một nhà thơ nổi
tiếng, một goá phụ và là con gái thứ năm của nhà yêu nước miền Nam- Nguyễn Đình
Chiểu- đã đảm nhận nhiệm vụ biên tập và
vận động cho các bài báo năm 1918. Lúc đầu, dường như Sương Nguyệt Anh muốn tờ
báo giữ gìn đạo đức Khổng giáo và tạo nên ý thức cộng đồng độc giả trong khuôn
khổ hợp tác Việt- Pháp. Ví dụ bà viết rằng Pháp là “ một người mẹ nuôi dưỡng,
yêu thương chúng ta như con gái út” (27). Tuy nhiên các ấn tượng ban đầu đưa
đến những ý tưởng sai lầm. trong phần này tôi sẽ bàn đến việc các nhà báo
chuyên mục của tờ báo này hành động như những người ủng hộ cho phụ nữ như thế
nào, trước hết là thúc đẩy việc giáo dục
cho phụ nữ và sau đó là xem xét một cách thận trọng các ý kiến về việc nam nữ
bình quyền và nữ quyền (28)
Trong phần mở đầu của báo, Sương Nguyệt Anh
nêu lên quan điểm của mình về vai trò
của tờ báo dành cho nữ giới.
“Khi tờ báo này xuất hiện ngày nay,
mục đích chính yếu nhất của nó là khởi xướng phong trào nữ học. Nó sẽ không dám
dính líu gì tới chính trị và không có ý tranh đua với nam giới” (29)
Sợ rằng lời tuyên bố này bị hiểu lầm, bà Sương
Nguyệt Anh đã giải thích rõ thêm các quan điểm của mình, cho rằng tờ báo sẽ
không bàn đến nữ quyền mà sẽ tập trung
vào vấn đề nữ học, một chủ đề bao gồm moị việc từ đọc sách đến giữ vững tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh(30).
Cũng trong lời mở đầu bà nói về nhu cầu
“ bày tỏ tầm quan trọng của chủng tộc, để đưa Nam, Trung, Bắc về một mối và
xây dựng một cộng đồng lớn.” (31)
Nhiều thành viên của tầng lớp
thượng lưu ca ngợi sự hợp tác Việt -Pháp và chỉ ra 1 vài lĩnh vực trong đó
người Pháp đã gây ảnh hưởng đối với cuộc sống của phụ nữ. Một số nhà báo chuyên
mục của Nữ giới chung coi nữ học là vấn đề ưu tiên rõ ràng và hầu như
chẳng có lý do gì mà không giáo dục nữ giới. Ngay cả Nguyễn Mạnh Bổng, (dùng
một trong những bút danh nữ giới là Nguyễn Song Kim) nói: “ sự thông minh
của phụ nữ đất nước ta không thua gì so với nam giới” (32). Nhưng phụ nữ
phải đối mặt với nhiều trở ngại. Trước hết, các nhà báo chuyên mục khẳng định
phụ nữ không được đánh giá cao như nam giới. Thứ hai, phụ nữ không tìm được
những quyển sách thích hợp.
“ Như mọi người đều biết, các
quyển sách cũ dạy phụ nữ và thiếu nữ ( trừ những ngoại lệ là các tác phẩm về
đạo đức) chắc chắn ngày nay không còn phù hợp. Thế giới trước đây là thế giới
riêng của đàn ông, trong khi đó thế giới ngày nay là thế giới của cả phụ nữ
nữa” (33)
Sương Nguyệt Anh cũng chỉ ra rằng
lúc đó rất ít sách tiếng Trung Quốc hay tiếng Pháp là phù hợp với phụ nữ và
thiếu nữ.
Trong bối cảnh này, các nhà báo của
tờ Nữ giới chung bàn luận về chủ đề sự bình đẳng của nữ giới , mà chủ đề
này cũng gắn liền với chủ đề nữ học một cách kì lạ. Một mặt nữ học dường như là
1 mục tiêu rõ ràng hiển nhiên, có thể đo bằng số lượng sách cho phụ nữ, số nữ
sinh và các biện pháp xác định được số lượng. Ngược lại, quyền bình đẳng của
phụ nữ khó hiểu hơn; các nhà báo chuyên mục của Nữ giới chung đã có lúc
khó khăn để định nghĩa khái niệm đó. Trong đầu mục của báo, bà Sương Nguyệt Anh
đã nói rằng tờ báo sẽ không bàn đến những vấn đề này. Bà nhanh chóng thất hứa.
Sau khi chính bà viết về chủ đề đó, các nhà báo chuyên mục khác cũng tham gia
bàn luận về nó.
Các tác giả của Nữ giới chung
tránh xa các ý nghĩa chính trị cả khái niệm quyền bình đẳng và tập trung vào ý nghĩa văn hoá của sự bình dẳng trong xã
hội giữa hai giới tính. Những tác giả này, nhiều người giống nhau trong quan
niệm về các thứ bậc tự nhiên giữa các
nhóm xã hội và giới tính, đã đấu tranh để bảo vệ sự bình đẳng và quyền bình
đẳng và mày mò tìm cách giải thích những khái niệm này cho người đọc.
Trong một bài báo thời kì đầu, Sương Nguỵêt Anh cho rằng quyền
bình đẳng có nghĩa là “phụ nữ cũng có cùng lợi ích như nam giới...” (35)
Sương Nguyệt Anh không bao gồm trong đó quan niệm về sự bình đẳng. Giống như
những nhà nữ quyền phương Tây, bà tin rằng phụ nữ cũng thông minh như nam giới.
Tuy nhiên bà cho rằng những cuộc nói chuyện về bình đẳng vẫn còn là sớm khi phụ
nữ chưa được giáo dục đầy đủ. Hơn nữa theo bà các lĩnh vực của nam và nữ bị chia rẽ và không
thể vi phạm; Đối với phụ nữ “ trông coi việc nhà và giúp đỡ chồng dạy dỗ con
cái là lẽ tự nhiên.” Sự tổn hại sẽ xảy ra trong xã hội nếu gia đình được
coi là một toà án đế quốc mà ở đó hai phe tranh luận để giành quyền kiểm
soát.(37). Tóm lại, sự bình đẳng về tri thức không có nghĩa là sự giống nhau về
vai trò.
Các nhà báo chuyên mục của Nữ
giới chung thường khăng khăng rằng khái niệm “quyền bình đẳng” và “ nam
nữ bình quyền”đến từ phương Tây nhưng lại gán cho chúng những ý nghĩa khác
nhau đối với sự thật này. Cô Bích Đào cho rằng hai từ “ nữ quyền” xuất
hiện ở Đông á khi “con thuyền văn hoá” phương Tây tiến vào khu
vực này. (38) Cô Liễu bóng gió dặt câu hỏi về tầm quan trọng của sự kiện này,
tranh luận rằng sự bình đẳng nam nữ có từ thời Gia Long lập nước ( năm 1802)
(39). Sương Nguyệt Anh chỉ ra rằng nam giới có lẽ là các nhà cải cách Trung
Quốc nhận nhiệm vụ thúc đẩy quyền bình đẳng nam nữ. (40). Tóm lại không có thoả
thuận nào về việc quan niệm về quyền
bình đẳng đến Việt nam khi nào, mặc dù hầu hết các tác giả cho rằng nó do người
phương Tây mang đến. Nói chung các tác giả tranh luận rằng “ “quyền bình
đẳng” và “nữ quyền” là những khái niệm bổ xung vào tư cách và đạo
đức của người Việt Nam cho dù Việt Nam đã sẵn sàng cho sự bình đẳng và kiểu
sống phương Tây hay chưa thì vẫn không
rõ ràng chút nào.
Những bài báo này cho thấy dấu hiệu
căng thẳng giữa việc tuân theo lối sống Khổng giáo và việc chấp nhận các khái
niệm về sự bình đẳng của phương Tây. Không có ai cho rằng có thể có sự bình
đẳng trong các phương diện của xã hội nông dân ở Việt Nam( như trong các truyền
thống, các thừa kế, dân gian hay lệ làng). Nói cách khác, trong thực tiễn của
những ai không thuộc tầng lớp thượng lưu có học. Cô Bích Đào đã nói bóng gió
dến khó khăn trong việc thực hành theo kiểu phương Tây, cô cho rằng các thói
quen của người Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam.
“ Nước ta vẫn còn giáp với biển
Đông. Việc học của chúng ta là do người Trung Quốc, nền giáo dục và các giá trị
đạo đức của chúng ta giống với của Trung Quốc; chúng ta cư xử với nhau trong xã
hội, tai ta nghe, mắt ta thấy, óc ta nghĩ và ta cảm thấy giống người Trung
Quốc.”
Cô Bích Đào đồng ý rằng ảnh hưởng
của Trung Quốc đã giảm bớt do sự xuất hiện của người Pháp. Hơn nữa, cô thấy
trong lịch sử Việt Nam dấu tích của một xã hội bình đẳng: “ phụ nữ như Hai
Bà Trưng, Đoàn Thị Điểm và Hồ Xuân Hương đều nắm quyền trong xã hội. Nhưng Bích
Đào đau xót lưu ý rằng trong khi những phụ nữ này nắm quyền thì họ lại không
bảo vệ nữ quyền” (43). Bà Nguyễn Thị Bổng - có thể là nhà báo nam Nguyễn
Mạnh Bổng viết dưới một trong các bút danh của ông lại có một hướng khác. Mặc
dù ông tin rằng phụ nữ phải dựa vào “ phái mạnh”, ông lập luận rằng “ ảnh
hưởng của chúng ta biểu lộ ra ngoài từ khuê môn của phụ nữ, kết quả là chúng ta
có quyền lực lớn trong xã hội”. (44)
Các tác giả của tờ “ Nữ giới
chung” đã có những ý kiến trái ngược nhau về dấu hiệu hứa hẹn trong tương
lai của những ý tưởng mới về sự bình đẳng. Họ không dám chắc việc tương lai sẽ
chỉ mang lại sự tiến bộ được chào đón, hưởng ứng- thực ra, họ không rõ những
khái niệm mới nào về nữ quyền sẽ cần
phải có. Thứ hai là ngoài trường học của nữ sinh và báo chí, có rất ít cơ quan
cung cấp bối cảnh cho sự phát triển những ý tưởng này.
Khi đọc những bài báo này, tôi rất ngạc nhiên
trước thái độ khó hiểu của các tác giả của chúng. Họ hưởng ứng các quan niệm
của Tây phương về sự bình đẳng và sự giáo dục dành cho phụ nữ, trong khi lại
bám chặt lấy các ý tưởng về cấp bậc giữa các nhóm xã hội theo Khổng giáo. Trong
khi coi những ý tưởng này là những ý tưởng mới nhập từ phương Tây, thì một số
tác giả lại lấy làm đau xót chỉ ra rằng mầm mống của sự bình đẳng có thể tìm
thấy trong xã hội và trong lịch sử Việt Nam. Các tác giả thường chấp nhận ý
kiến rằng nam nữ bình quyền là một mục đích hằng được mơ ước- nhưng họ không
chấp nhận ý kiến rằng nam giới và nữ giới nên chia sẻ các công việc và lợi ích
như nhau.
Để kết luận phần này, tôi muốn
chuyển từ cuộc thảo luận về các cuộc tranh luận xung quanh vị trí của người phụ
nữ trong xã hội để nói đến hai vấn đề có liên quan: việc chuyển đổi, các ý
nghĩa mơ hồ (không rõ ràng) của các khái
niệm mới được đưa vào ( như là quyền bình đẳng) và cách mà phương tiện báo chí ảnh hưởng tới việc tiếp
nhận các ý kiến đó.
Các nhà báo chuyên mục của tờ Nữ
giới chung đấu tranh với vấn đề chủ chốt liên quan tới việc hấp thụ tư
tưởng nước ngoài. Những tư tưởng mới này thiếu nghĩa rõ ràng, xác định . Hơn
nữa độc giả Việt Nam có khả năng tình cờ bắt gặp tư tưởng phương Tây về sự bình
đẳng lần đầu tiên qua các bài viết của các nhà cải cách Trung Quốc, những người
này tự đưa ra lời giải thích riêng về ý nghĩa của các khái niệm đó. Quá trình
diễn dịch và hấp thu này đã làm biến dạng các quan niệm của phương Tây về sự
bình đẳng. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi tư tưởng về nam nữ bình quyền và nữ
quyền đã có những nghĩa mới- đôi khi mơ
hồ. Tính mơ hồ của các khái niệm này được một nhà báo chuyên mục của Nữ giới
chung thể hiện:
“Cho dù nữ quyền là gì đi nữa,
chúng không phải là những viên đá tròn, không phải là những mẩu gỗ dài và không
có hình lục giác hay bát giác, nghĩa là có hình dạng và chất... ( nữ quyền)
vững chắc như một cơn gió nhẹ thổi trên mặt cỏ và đẹp như bầu trời buổi sáng.
Chúng làm cho ta tôn trọng mọi ngươi, chúng làm ta sợ, làm ta yêu..” (45)
Dù chúng là gì đi nữa, tác giả dường như đang
muốn nói rằng, các khái niệm này là tuyệt vời nhưng bí ẩn. Nhiều bài viết trong
Nữ giới chung dường như cố gắng xua tan đi điều bí ẩn bao quanh các khái
niệm như vậy về sự bình đẳng.
Tính mơ hồ không rõ ràng của những
khái niệm mới được hấp thu này lại càng tăng lên do các cách hiểu rất khác nhau
của các tầng lớp xã hội về phía đa số độc giả Việt Nam. Nhiều bài báo trong tờ
báo này có nhắc đến các quan niệm của Khổng giáo về tầng lớp xã hội, cả về
phương diện các nhóm cấu thành xã hội. Khái niệm hiện đại về giai cấp không
hiện diện trên các trang của tờ báo. Sương Nguyệt Anh và các nhà báo chuyên mục
của bà tin tưởng vào một xã hội được điều tiết tốt không chỉ về mặt kinh tế mà
cả phương diện đạo đức cơ bản. Họ tin rằng các vấn đề mà phụ nữ đối mặt đòi hỏi
phải có các biện pháp mang tính đạo đức. Hướng giải quyết các vấn đề về phụ nữ
này đối lập hẳn với các bài luận có ý thức về giai cấp và các bài luận chiếm ưu
thế ở tờ Phụ nữ tân văn trong năm tồn tại cuối cùng (1934).
Như tôi đã lập luận từ trước, phương tiện báo
chí với các nhóm các văn bản riêng biệt ( tiêu đề, bản quảng cáo...) có ảnh hưởng đối với việc
tiếp nhận các văn bản. Trang đầu tiên của Nữ giới chung đem đến cho
người đọc ý tưởng rằng tờ báo sẽ kết hợp những điều tốt nhất của phương Đông và
phương Tây: tiêu đề của tờ báo được viết bằng tiếng Việt, sau đó là tiếng Pháp,
sau đó là mẫu tự tiếng Trung. Ngược lại tiêu đề của mỗi phần thường ( chứ không
phải lúc nào cũng vậy) chỉ được viết bằng tiếng Việt và tiếng Trung mà thôi.
Mỗi kì phát hành, đều có vô số bài
báo, bản quảng cáo. Ví dụ kì phát hành ngày 22-12-1918 có một bản quảng cáo kín
trang cho một công ty bán hàng Pathé Freres, sữa La Petite Fremiere, xà phòng
le Chat và ‘ Whisky Black and White”. các bài báo về cách làm nước si rô và nấu
món mì ống ý xuất hiện, cũng như bài luận ngắn về “Các trách nhiệm của phụ
nữ” và làm một bài thơ ca ngợi Nữ giới chung. Ví dụ này về các văn
bản và bán văn bản, dù không toàn diện nhưng cũng tiêu biểu cho tờ báo. Tổng
hợp lại, những đầu mối này đưa ra một thông điệp đầy mâu thuẫn cho người đọc.
Tờ báo bản thân là hàng hoá, đã quảng cáo các hàng của giai cấp tư bản phương Tây.
các bản quảng cáo cho đủ mọi thể loại hàng tiêu dùng kèm theo những bài viết
đắm chìm trong cách nhìn á Đông về thế giới. Nói cách khác, các đầu mối về văn
bản và bán văn bản tồn tại trong sự căng thẳng chẳng lấy gì làm dễ chịu.
Phần tiếp theo: "Các trang báo của Phụ nữ tân văn " đọc ở đây:
http://chuyencuachi.blogspot.com/2013/07/an-pham-va-quyen-luc-cac-cuoc-thao-luan_1503.html
Chú thích:
27 Câu truyện
đọc sách
28 “ Quyền có
nghĩa là quyền, quyền lực, quyền uy” có nhiều nghĩa hơn chữ quyền tiếng Anh.
Hơn nữa, vấn đề nữ quyền được thảo luận trong bối cảnh phụ nữ đòi quyền bầu cử
ở phương Tây, một vấn đề quan trọng thứ
yếu ở Việt Nam. Do đó phụ nữ Việt Nam hiểu từ “ quyền phụ nữ” như một thuật ngữ
mang tính xã hội và văn hoá nhiều hơn là thuật ngữ thuộc sự bầu cử.
29. Sương nguyệt
Anh “ Lời tựa đầu”, tr1
30 Như trên
31. Như trên, tr
3
32 Nguyễn Song
Kim (tức là Nguyễn Mạnh Bổng), “ Việc nữ học” Nữ giới hung, 19-7-1918, tr3. Các
nhà báo chuyên mục khác cũng đồng thời
có cảm giác này. Trong các bút danh của Nguyễn Mạnh Bổng, xem lời giới thiệu về Nam Phong (1917-1934) của Phạm Thị Ngoan.
33 Sương Nguyệt
Anh, “ Xã thuyết”- Bàn về sách dạy đàn bà” NGC, 4-4-1918.tr1.
34, Như trên
35 Sương Nguyệt
Anh, “ Nghĩa nam nữ bình quyền là gì?” NGC 22-2-1918, tr1.
36. Như trên
tr2.
37. Như trên
38. Mile Bích
Đào “ Bàn thêm về chữ nữ quyền” NGC, 15-3-1918, tr1
39 Mile Liễu, “
Nữ quyền tự do luận” NGC 15-3-1918.tr7
40. Sương Nguyệt Anh, “ Xã Thuyết- Nghĩa Nam
nữ bình quyền là gì? tr1.
41. Mile Bích
Đào “ Bàn thêm về chữ nữ quyền” tr1
42. Hai Bà Trưng
( mất năm 43 ), nổi tiếng vì đã dẫn đầu đoàn quân Việt Nam chống ngoại xâm
Trung Quốc, Đoàn Thị Điểm (1705-1746) được cho rằng đã dịch “ Chinh phụ ngâm”
từ bản tiếng Trung Quốc của Đặng Trần Côn sang tiếng Việt, Hồ Xuân Hương ( thế
kỉ 19) là một nhà thơ nữ nổi tiếng.
43. Như trên.
44 Nguyễn Thị
Bổng, “ Đạo dần bà”-NGC 7-6-1918, tr1
45. Mile Bích Đào, “ Bàn thêm về chữ nữ quyền”
tr1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét