Shawn Mc Hale
Đặng Thị Vân Chi dịch từ:Taylor KW and Jonh. K.Whitmore(1995), Editor. Essays in to Vietnamse pasts. Cornel University NewYork.
Đặng Thị Vân Chi dịch từ:
2. Thế
giới độc giả
Độc giả Việt Nam đã mang lại cho các
bài viết các câu chuyện lịch sử về đời sống cá biệt, các kiểu đọc, các kĩ năng
diễn giải và các quan niệm về quyền lực của chữ viết và chữ in. Thật không may
là các học giả khi phân tích các bài viết tiếng Việt đã không thảo luận về mối
quan hệ giữa việc đọc- hay người đọc với các bài viết. Họ cho là người Việt Nam
thời đó đọc các bài viết theo cùng một cách như người Việt Nam, người Âu, người
Mỹ ngày nay đọc. Phần này sẽ bàn về vấn đề đọc hay cụ thể hơn là về cách mà phụ
nữ Việt Nam tiếp cận các bài viết.
Trong 20 năm qua, nhiều nhà lý luận
văn học và một số ít các nhà sử học đã chuyển sự quan tâm của họ từ việc chỉ
tập trung vào các bài viết như một điểm để hiêủ nghĩa sang cách tiếp cận nhấn
mạnh mối quan hệ giữa độc giả và bài viết.(13) Chartier, người tôi đã nhắc đến
lập luận rằng: “ lịch sử của các kiểu đọc hẳn phải chỉ ra những thiên hướng
đặc trưng ghi dấu các cộng đồng độc giả và và truyền thống đọc của họ” và
điều đó - bằng cách mở rộng -cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc giải
thích ý nghĩa của văn bản.(14)
Trong bối cảnh thực dân, việc chuyển
hướng chú ý về phía người đọc góp phần tạo nên mối quan tâm lớn hơn đến cách mà
khán thính giả (dù là người đọc, người nghe hay người xem cũng vậy) hiểu các
bài viết và các buổi diễn. (15). Trong trường hợp người Việt Nam, nó tập trung
sự chú ý vào vai trò tích cực mà người
Việt Nam có được những ảnh hưởng thích đáng từ bên ngoài.
Việc hiểu được các ảnh hưởng về văn
học và lý luận trong khuynh hướng ban đầu của chúng không giúp chúng ta hiểu
được cách người Việt Nam tái tạo ý nghĩa của chúng trong một ngữ cảnh khác.
Chúng ta cần hiểu một cách không đơn giản
chỉ những ý nghĩa gắn với các bài viết khác nhau mà cả những tác động
trong “phạm vi mong đợi” khác nhau, ví dụ như: một thời đại lịch sử và các quy
ước về ý thức hệ khác nhau vẫn có cách để hiểu tác phẩm. (Ví dụ: Liệu chúng ta
có thể nói một cách trung thực rằng sự đề cao
của trường phái lãng mạn đối với cá nhân được hiểu theo cùng một cách
như ở Pa ri thế kỉ XIX và ở Sài Gòn thế
kỉ XX không? ý tưởng này nghe có vẻ ngớ ngẩn). Mặc dù chúng ta không thể tranh
luận một cách máy móc rằng những chia rẽ về xã hội quyết định việc hiểu các bài viết và một điều
không kém phần đúng đắn là giới tính và địa vị xã hội có ảnh hưởng đến việc đọc
và tiếp nhận các ấn phẩm in ra. Mặc dù trong nhiều trường hợp, độc giả đọc to
lên cho những người khác trong nhóm nghe, các nhận xét của tôi trong các đoạn
văn sau là xoay quanh độc giả. ( Kinh nghiệm nghe trong nhóm- dù trong bối cảnh
theo nghi thức hay trong bối cảnh mà người nghe có thể đặt các câu hỏi với
người đọc- đã giúp truyền đạt các ý kiến vượt ra ngoài phạm vi số ít những
người có học.)
Giữa những năm từ năm 1918 đến1930, giới độc giả
Việt Nam đã có những thay đổi sâu sắc. Sự đi lên của nền văn hoá in ấn
có ảnh hưởng lớn nhất- nhưng không giới hạn
trong giới thượng lưu ở các đô thị. Tôi đặc biệt muốn tìm hiểu về các
độc giả nữ, những người tạo nên lực lượng bạn đọc chính của cả hai tờ báo mà
tôi sẽ thảo luận chi tiết sau. Đối với những người phụ nữ có thể đọc và đủ khả
năng mua các xuất bản phẩm, sách báo là những cửa sổ mở ra một thế giới rộng
lớn hơn. Kiến thức và những kĩ năng diễn giải mà họ thể hiện cho các bài viết
đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên những hiểu biết của họ về chữ in.
Trước hết, để hiểu phụ nữ với tư cách là độc giả và tác giả, chúng ta cần quán
triệt một số đặc điểm mấu chốt về vị trí của họ trong xã hội. Những vai trò
giới tính phát triển một cách tự nhiên từ năm 1918 đến năm 1934, nhưng ở cả hai
thời điểm này phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu nắm quyền hành trong nhà nhiều
hơn so với trong các lĩnh vực xã hội. Năm 1918, bà Sương Nguyệt Anh bình luận
rằng: “ Phụ nữ như một ngọn đèn: ở trong nhà thì họ toả sáng rực rỡ, còn ra
ngoài đường thì họ nhạt nhoà...(17). Sự đối lập mang tính biểu trưng phụ
nữ/ việc nhà và đàn ông/ việc công đã định hình sự phát triển quá trình đọc và
viết của phụ nữ. Nó có ảnh hưởng đến mọi thứ từ các loại sách mà tác giả viết
về phụ nữ cho tới những chủ đề mà phụ nữ nghĩ rằng họ có thể thảo luận. Ví dụ
Sương Nguyệt Anh đã tuyên bố rằng : tờ báo của bà trong khi đặt vấn đề về giáo
dục phụ nữ “ sẽ không dám can thiệp vào chính trị, và cũng không dám mạo
hiểm tranh đua với đàn ông” (18). Đến những năm 1930, phụ nữ đã bớt dè dặt
trong việc đề cập đến các chủ đề chính trị và tham gia thảo luận về các vấn đề
xã hội. Tuy nhiên nhiều đàn ông coi họ như những kẻ xâm phạm
thế giới báo chí mà đàn ông cai trị. Thậm chí vào những năm 1930, các
biên tập viên của của Phụ nữ tân văn đôi lúc đã phải tự vệ chống lại
những nhà báo nam, những người có có khuynh hướng chế nhạo phong trào đòi quyền
bình đẳng cho phụ nữ của họ. Khi một nhà báo chuyên mục của tờ Phụ nữ tân
văn thực hiện một chuyến đi diễn thuyết để cổ vũ cho phong trào đòi quyền
bình đẳng cho phụ nữ năm 1934 ( và cả tờ báo mà bà cộng tác ), một số phóng
viên đã đặt câu hỏi về đạo đức của bà. Rõ ràng là phụ nữ đã tiến xa kể từ năm
1918, nhưng họ vẫn bị coi như những ngọn đèn chỉ toả sáng nhất trong nhà. Nói tóm lại phạm vi
công chúng bị phân chia trong khoảng
1918 và 1934, và tình trạng này chỉ thay đổi một cách chậm chạp.
Nghề làm báo của phụ nữ cũng phải đối mặt với
một trở ngại chủ yếu nữa: Có ít phụ nữ Việt Nam có thể đọc được. Những người
này thường thuộc giới thượng lưu- mặc dù một số phụ nữ nghèo cũng học được kĩ
năng đọc.(19) Việc học đọc quả là hứng thú cũng như đôi khi nhầm lẫn. Bà Tuyết
Mai bày tỏ những cảm giác này khi bà chia sẻ những kinh nghiệm đọc sách đầu
tiên với một bạn đọc trong số những độc giả của báo Nam Phong:
“ Tôi đã học từ lâu , nhưng chỉ mới
bắt đầu học chữ quốc ngữ... Cho tới lúc đó tôi chỉ học tiếng Pháp. Mặc dù chữ
quốc ngữ đã được dạy ở trường, người ta chỉ học nó một tuần một buổi và một
trong những buổi đó cũng là giờ chơi của chúng tôi.
Tôi
nghĩ về việc chữ quốc ngữ có giá trị như thế nào đối với chúng ta, nó cần thiết
như thế nào, tuy nhiên chúng tôi chỉ có một giờ mỗi tuần để học nó. giờ học đó
lại bị coi thường, khinh thị. tôi vẫn không hiểu tại sao. Trước tình hình đó,
tôi cảm thấy chán ngán và mệt mỏi. tôi thấy dạ dày rỗng tuếch. Tôi vẫn không
hiểu tại sao chữ tây ( tiếng Pháp) lại được coi trọng đến vậy trong khi tiếng
mẹ đẻ lại bị coi khinh như vậy.
Tôi
thật may mắn khi thầy của tôi với lối nghĩ sâu xa, đầy lo lắng đã nhất quyết
dạy chúng tôi chữ quốc ngữ. giờ học chữ quốc ngữ giờ đây trở nên quan trọng và
quý giá, và không còn bị thờ ơ như trước đây. tôi hoàn toàn rất vui sướng và cảm động. Do đó tôi bắt đầu
học chữ quốc ngữ.”(20)
Tôi muốn nêu bật một vài điểm về đoạn viết
này. Người đọc hẳn phải ngạc nhiên về việc chữ quốc ngữ có giá trị như thế nào
đối với Tuyết Mai. Trong khi đó người viết đoạn văn này cảm thấy người Pháp coi
chữ quốc ngữ thấp kém hơn ngôn ngữ của mình. Thực ra nhiều người Việt Nam cảm
thấy ngôn ngữ của họ thấp kém hơn so với tiếng Pháp. Trong một bài báo năm
1934, nhà báo Nguyễn Thị Kiêm nhắc đến việc bà có hỏi một số phụ nữ thuộc tầng
lớp thượng lưu tại sao họ không bao giờ dùng tiếng An nam, hay đọc sách chữ
quốc ngữ, họ trả lời rằng “tiếng An nam khó hiểu và chẳng rõ ràng chút nào.”
(21). Quan niệm về tính thấp kém của ngôn ngữ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài
đối với cách mà người Việt Nam thuộc tầng lớp thượng lưu liên hệ việc đọc với
sự đô hộ của thực dân.
Các độc giả nữ không có một kiến thức nền hay
lịch sử để áp dụng khi đọc các bài viết
như nam giới. Tình trạng này đã dẫn đến việc các bài báo giải thích việc
đọc là gì và nó làm gì : một điều tức cười trong những điều tức cười, bởi vì
các bài báo này sẽ được hiểu chủ yếu thông qua việc đọc! Năm 1931, một tác giả
kí dưới bài báo của bà ( hay ông) là “T .V” đã chỉ ra rằng:
“ Việc đọc không chỉ đơn thuần là mở bất kì
quyển sách nào, nhìn vào nó và nghĩ về nó. Việc đọc cũng đòi hỏi có phương
pháp...
Tất cả các quyển sách đều có một hệ thống, có
nghĩa là có phần mở đầu và phần kết luận. Mọi người nên đọc từ chương đầu tiên
cho đến chương cuối cùng. Đừng có nhảy cóc khi đọc. Và đừng có đọc từ giữa
chương sau đó quay lại từ đầu.
Còn
đối với những quyển sách không có hệ thống thì mọi người chắc chắn không được đọc theo kiểu như vậy. Việc bạn đọc từ
giữa hay giữa một đoạn văn cũng chẳng khác gì nhau. Ví dụ trong một tuyển tập
thơ, bút kí hay chuyện ngắn, chẳng có lí do gì để đọc từ đầu đến cuối cả” (22)
Lời khuyên này có lẽ rất rõ ràng đối với chúng
ta- nhưng nó cho thấy nhiều độc giả chưa nắm được những gì chúng ta coi là bước
thực hành cơ bản. tác giả tiếp tục chỉ ra rằng các loại tài liệu khác nhau thì
cần các phương pháp đọc khác nhau. Thơ và bài hát cần được học thuộc, ngược lại
triết và khoa học cần được đọc để nắm
được ý chính. Khi đọc các quyển sách cũ, mọi người cần cố gắng hiểu chúng bằng
đôi mắt của một người thời đó.(23)
Từ những lời trích dẫn trên, chúng ta thấy
rằng việc đọc sách cần được nuôi dưỡng và thực hiện có phương pháp. Người đọc
cũng nhận thấy rằng nó có một khía cạnh về đạo đức. Trong một bài báo trên Nam
phong năm 1930, một nữ tác giả nổi tiếng từ Hà Tiên là Mộng Tuyết khẳng
định rằng:
“ Thông qua việc đọc sách, ta có
thể mở mang trí tuệ, thấu hiểu quá khứ và hiện tại, thấy những điều đáng quan
tâm và học chúng và được cảnh báo về các điều tầm thường. Thông qua việc đọc
sách một con người ngu ngốc có thể trở nên khôn ngoan. Sự thông thái đó là đạo đức và thành thực khác
với sự xảo quyệt và lừa lọc của những
kẻ vô học.”(24)
Lời trích dẫn trên chứa đầy tính thượng lưu và
chủ nghĩa đạo đức . Mặc dù nó do một phụ nữ viết, nó cũng có thể được viết bởi
một người đàn ông. nhưng phụ nữ thực sự đã thấy rằng việc đọc và học có những
chức năng khác nhau đối với nam giới và phụ nữ. Thay vì đóng vai trò của những
người đọc thụ động đối với chữ viết và chữ in, phụ nữ ngày càng coi việc đọc là
quyền lợi của riêng họ. Năm 1933, một chủ bút của Phụ nữ tân văn hô hào
cổ vũ phụ nữ đọc từ một quan điểm của phụ nữ.: “ Khi bạn đọc một quyển sách
hay đọc một tờ báo, hãy tự hỏi liệu nó
ủng hộ hay làm phương hại đến lợi ích của chúng ta ( các lợi ích về) phong trào
phụ nữ” (25).Thái độ này có thể là phản ứng trước thực tế là hầu hết các
tài liệu in ấn đều nhằm vào phái nam.
Từ năm 1918 đến những năm 1930, việc đọc nói
chung đã hoàn thành các chức năng giáo dục và mang lại phẩm giá. Các bài viết
thường tự cho nó là một hoạt động của nam giới. Tuy nhiên các tác giả nam thỉnh
thoảng cũng cổ vũ phụ nữ đọc, hẳn là do những ảnh hưởng tốt có thể có, nhưng họ
cũng gửi đến bức thông điệp úp mở bằng cách cảnh báo về những nguy hiểm của
việc đọc. Ví dụ một nhà bình luận là nam giới đã tranh luận một cách dè dặt
rằng: giáo dục nói chung giúp phụ nữ
kiềm chế dục tình, trong khi một nhà bình luận khác nhắc nhở người đọc rằng một
số phụ nữ trẻ đã tự tử ở Hà Nội sau khi đọc sách .(26) Cách hiểu mang tính đạo
đức về việc đọc này, với thông điệp mơ hồ, thay đổi một cách chậm chạp. Các bài
viết của Sương Nguyệt Anh và Mộng Tuyết chỉ ra rằng việc đọc sách có thể nang
cao giá trị và trí tuệ của phụ nữ. Trong những năm 1920 và những năm 1930, việc
kêu gọi phụ nữ học hành và học đọc rất phổ biến, ngay cả khi kết quả vẫn còn
khiêm tốn.
Trong các trang báo của tờ Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn
cũng như các tờ báo khác, vai trò về đạo đức của việc đọc và viết thường được
nhấn mạnh đồng thời rằng việc đọc ngày càng ít được coi là một hoạt động thuộc
giới tính. hơn nữa, trong khi dường như có thoả thuận về yêu cầu đạo đức thì lại không có sự nhất trí nào việc tính
đạo đức đó là gì. Kết quả thật lộn xộn, vì người viết cố gắng cảm nhận về ảnh
hưởng của phương Tây, Trung Quốc và Việt nam đối với xã hội Việt Nam và xác
định 1 đường lối hiện đại, nhưng mang chất Việt Nam.
Phần tiếp theo: " Các trang báo của Nữ giới chung năm 1918" đọc ở đây:
http://chuyencuachi.blogspot.com/2013/07/an-pham-va-quyen-luc-cac-cuoc-thao-luan_779.html
Chú thích:
Phần tiếp theo: " Các trang báo của Nữ giới chung năm 1918" đọc ở đây:
http://chuyencuachi.blogspot.com/2013/07/an-pham-va-quyen-luc-cac-cuoc-thao-luan_779.html
Chú thích:
13. Ba người ủng
hộ hàng đầu lời bình phẩm nghiêng về phía khán giả hơn” là Wolggang Iser, Hans
Robert Jauss và Stanley Fish. đối với những lời giới thiệu cho đường hướng đáng
chú ý của Iser, nghệ thuật tiếp nhận mang tính lịch sử của Jaus và sự phát
triển khái niệm “ cộng đồng diễn giải ( hay cộng đồng chia sẻ những quy tắc đọc
của Fish, xem Wolggang Iser” Quá trình đọc: một đường hướng đáng chú ý” trong
lời bình phẩm hồi đáp độc giả: từ chủ nghĩa hình thức đến hậu chủ nghĩa kết
cấu” Jame Tompkins ( Batimore Johns Hopkin University Press, 1980) các
trang50-69, bài tiểu luận trích dẫn của Hans Robert Jauss, ‘ lịch sử văn học
như một thác thức đối với học thuyết văn học” trong cuốn “Hướng về nghệ thuật tiếp thu” của ông (
Minneapolis: University ò Minnesota Press, 1982) các trang 2-45, Standley Fish,
“ có bài viết nào trong giai cấp nào không? - “ quyền lực của các cộng đồng
diễn giải ( Cambridge: Havard University Press, 1980)
14. Roger
Chartier “ Le monde representation”
tr1510
15. lối tiếp cận
đó gây tiếng vang với những nghiên cứu lịch sử gần đây của Vicênt Rafael và
Takaski Shiraishi, nhấn mạnh cách mà mọi người dân bản sứ hấp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài qua ‘
cách dịch”. Xem Vicent Rafael “ Chủ nghĩa thực dân gò bó”: Việc dịch và việc
cải đạo Cơ đốc giáo trong xã hội Ta ga log dưới ách thống trị của Tây ban nha”
( Ithâc: Cornell University Press, 1988) và Takashi Shiraishi “ một thời đại
chuyển động” ( Ithaca Cornell University press. 1990
16. Trong hai
thập kỉ trước Hans Robert Jauss đã đề cập đến vấn đề thay đổi những ước vọng từ
phía độc giả và họ có ảnh hưởng thế nào đối với việc tiếp thu 1 tác phẩm. nghệ
thuật tiếp thu của Jaus cố gắng cung cấp cơ sở lí thuyết cho các cách hiểu lich
sử khác nhau về tác phẩm nhất định, tranh luận rằng những lối tiếp cận khác
nhau phụ thuộc vào điều kiện “ các phạm vi ước vọng” khác nhau từ phía độc giả.
xem các bài tiểu luận được thu thập trong cuốn Toward an Aesthetic of Reception của Hans Jauss
17. Sương Nguyệt
Anh, ‘ lời tựa đầu .Nữ giới chung 1-2-1918 tr2
18 Như trên
19 Một ví dụ thú
vị là Nguyễn Thị Thập, sinh năm 1908, sau đã trở thành chủ tịch Hội phụ nữ Việt
Nam. trong hồi kí bà viết lúc còn bé.
“ Tôi thích đọc
sách một cách điên cuồng. mỗi khi tôi mang những rổ chuối hay cây cọ đến chợ để
bán, tôi không dám ăn quá nhiều bánh.
Tôi muốn tiết kiệm tiền để mua sách đọc. Những quyển sách này nhỏ mỏng như Vỏ Đống Sổ, Bách Thủ Hạ, vì nước hoà rôi,
Giọt máu chung tình... tôi đọc đi đọc lại chúng. tôi không bao giờ chán chúng.
Nguyễn Thị Thập
: Từ đất Tiền Giang (Đoàn Giỏi viết lại). TP Hồ Chí minh, NXB Văn Nghệ 1986
20 Tuyết Mai,
Bông hoa đầu mùa. nam Phong, 118- 7/1927, tr526
21. Nguyễn Thị
Kiêm. “ Sự học và việc làm của phụ nữ. PNTV. 15-3-1934, tr5.
22 TV. Câu
truyện đọc sách. PNTV 21-12-1933 tr5
23 Như trên
24. Mộng Tuyết “
Bông hoa đua nở, nam Phong.146-1/1930
25 Bài xã luận:
thái độ của ta đối với báo chí và sách vở pNTV 22-1-1933 tr6.
26. Thiếu Sơn “ Sự học và đàn bà” PNTV
7-9-1933, tr8, Tv Câu truyện đọc sách...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét