(QUA MỘT SỐ SÁCH CHUYÊN KHẢO VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ)
Đặng Thị Vân
Chi
Kỷ yếu HT quốc gia"" Nữ quyền- những vấn đề lý luận và thực tiễn" ngày 8/10/2015, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, từ tr 173-186,
I.
Mở đầu
Cho tới thời Cận thế, địa vị của
phụ nữ ở cả Phương Đông và Phương Tây đều vô cùng thấp kém. Phụ nữ không có bất
cứ một quyền lợi nào trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế và văn hoá cũng như
tôn giáo. Bắt đầu từ giữa thế kỷ 17, đặc biệt trong thế kỷ 18 trào lưu tư tưởng
“ánh sáng”
của Pháp với những tác phẩm Tinh thần luật pháp của Môngtecxkiơ, hay Luận
về nguồn gốc và cơ sở của sự bất bình đẳng, Khế ước xã hội của Rútxô
đã liên tiếp tấn công vào thành trì quân chủ chuyên chế bằng những học thuyết mới,
tiến bộ và cách mạng. Trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến, trào lưu
tư tưởng tiến bộ và cách mạng đó đã trở thành cương lĩnh chính trị của phong
trào cách mạng, có ảnh hưởng khắp châu Âu và mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển. Sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế, xã hội, chính trị…lúc đó đã
làm nảy sinh nhiều vấn đề như: vai trò phụ nữ, sự bất lợi về kinh tế của phụ nữ
do bắt buộc phải phụ thuộc vào đàn ông, việc phụ nữ bị loại ra khỏi môi trường
xã hội, vị trí thấp kém của phụ nữ về mặt pháp luật so với nam giới …
Đến cuối thế kỷ
18, đầu thế kỷ 19, ở phương Tây và đặc biệt là ở Mỹ đã xuất hiện các lý thuyết
về nữ quyền. Đó là lý thuyết nữ quyền tự do (hay còn gọi là nữ quyền tư sản) và
đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xuất hiện lý thuyết.nữ quyền mác xít ( hay nữ
quyền xã hội chủ nghĩa). Nhìn một cách đại
thể, lý thuyết nữ quyền tự do vận động đấu tranh cho quyền được học tập, quyền
làm việc và quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ… Còn lý thuyết nữ quyền mác
xít hay nữ quyền xã hội chủ nghĩa thì gắn việc giải phóng phụ nữ với cuộc đấu
tranh giai cấp và cuộc cách mạng để xây dựng một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển của báo chí và kỹ thuật in ấn, xuất bản… tất cả những vấn
đề trên đã nhanh chóng trở thành chủ đề của các cuộc tranh luận trong xã hội,
trên báo chí và các xuất bản phẩm... từng bước làm thay đổi nhận thức của xã hội
và bản thân người phụ nữ về quyền con người và quyền phụ nữ.
Các
tác phẩm về nữ quyền của các nhà tư tưởng lớn qua
nhiều con đường khác nhau đã được các trí thức Việt Nam tiếp thu, ủng hộ và giới
thiệu trên báo chí cũng như xuất bản thành sách để phổ biến trong nhân dân. Những
bài báo và các tác phẩm này đã phản ánh quá trình phát triển về mặt nhận thức của
giới trí thức Việt Nam về vấn đề nữ quyền và bình đẳng nam nữ. Vào những năm nửa
đầu thế kỷ XX, những cuộc thảo luận về vấn đề phụ nữ và cuộc vận động giải
phóng phụ nữ ở Việt Nam đều xoay quanh và chịu ảnh hưởng bởi hai khuynh hướng vận
động nữ quyền này.
II.
Những nhận thức
ban đầu và cuộc thảo luận về nữ quyền trên báo chí trong 25 năm đầu thế kỷ XX
Trước khi Việt Nam
trở thành thuộc địa của Pháp, với thể chế chính trị quân chủ chuyên chế và hệ
tư tưởng Nho giáo là bệ đỡ cho chính quyền thì người dân Việt Nam chỉ là những
“thần dân” của Hoàng đế, đặc biệt phụ nữ hoàn toàn không có bất cứ quyền lợi
nào về kinh tế, chính trị và văn hóa. Vì vậy, những tư tưởng về nữ quyền và
bình đẳng nam nữ là một khái niệm hết sức xa lạ. Ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng dân chủ
trên thế giới qua các “tân thư” cùng với sự xuất hiện của báo chí, lần đầu tiên
người dân Việt Nam được tiếp cận với các tư tưởng mới và có cơ hội bày tỏ quan
điểm của mình đối với các vấn đề xã hội, văn hóa và chính trị.
Khái niệm nữ quyền lần đầu tiên được nhắc đến
trong bài Về thói trọng nam khinh nữ của ta trên Đông Dương
Tạp chí (ĐDTC) ngày 11/2/1914. Trong bài này, sau khi phân tích thực trạng
địa vị phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, tác giả kêu gọi phụ nữ đấu tranh
“sao cho nữ quyền chúng ta ngày càng nhớn để cho các thầy nó đố dám
lên mặt tu mi mà bắt nạt cân quắc”. Như vậy, “nữ quyền” trong bài báo này chỉ là để
cho nam giới không thể “bắt nạt” phụ nữ được nữa. Lần thứ hai “nữ quyền” được
nhắc đến trong mục Nhời đàn bà số 5 ngày 21/1/1915 trên Trung Bắc
TânVăn (TBTV) khi đặt vấn đề “muốn mang tư tưởng cùng chị em bàn bạc để
đúc lấy nữ quyền dạy bảo nhau chóng nên người khôn ngoan, tài đảm để gây
nên một giống nòi mạnh bạo, mai sau này chiếm lấy một phần nữ sử với hoàn cầu.”
Năm 1916, trên TBTV
trong mục Nhời đàn bà, Nguyễn Văn Vĩnh có Bàn về nữ quyền
cho rằng “người đàn bà trời sinh ra để làm bạn, để gánh vác một công việc với
người đàn ông chứ không phải để làm thân trâu ngựa” và việc coi thường phụ
nữ của người đàn ông Việt Nam xưa nay là một cách tự làm thiệt mình vì đã coi
thường một người làm bạn với mình, một người cùng gánh vác công việc với mình.
Cũng trong năm 1916, trong bài Sự giáo dục
đàn bà con gái trên ĐDTC (bài
này được đăng lại trên báo Nam Phong tháng 10/1917), Phạm Quỳnh đã đánh
giá cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và
trong nền sản xuất xã hội nhưng cho rằng phụ nữ từ trước tới nay bị đánh
giá thấp “suy cho cùng chỉ vì không
có học thức mà thôi”. Và quyền bình đẳng nam nữ lúc này chỉ được hiểu là “phải
lưu tâm vào sự giáo dục đàn bà”.
Như vậy cho đến năm 1917, trước khi chiến
tranh thế giới I kết thúc, khái niệm nữ quyền chỉ được nhắc đền một cách hời hợt
trong khi kêu gọi phụ nữ thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới, chưa ai đưa ra
được định nghĩa “ Nữ quyền” là gì?
Năm 1918, tờ báo đầu
tiên dành cho phụ nữ, báo Nữ giới chung
(NGC)
phát hành số đầu tiên vào ngày1/2/1918.
Ngay sau khi ra đời, NGC đã có một cuộc thảo luận về khái niệm nữ
quyền và quyền bình đẳng nam nữ. Các tác giả NGC đã bàn đến Nghĩa nam nữ bình quyền là gì (của
Sương Nguyệt Anh) trên báo ra ngày 22/2/1918, Bàn thêm về chữ nữ quyền (của
cô Bích Đào) trên báo ngày 15/3/1918 hay
Nữ quyền bình đẳng luận (của cô Liễu) trên báo ngày 15/3/1918 và Nữ
quyền (của Cự Hải Nguyễn Hồng Nguyên.)..
Trong cuộc thảo luận này, mỗi người đều cố
gắng đưa ra những lời giải thích riêng về nghĩa của các khái niệm. Một số người
cho rằng tư tưởng này là những tư tưởng mới được du nhập từ phương Tây, trong
khi đó một số người khác lại chỉ ra mầm mống của sự bình đẳng có thể tìm thấy
trong xã hội Việt Nam truyền thống. Cuộc thảo luận cho thấy quá trình diễn dịch,
hấp thu này đã làm biến dạng các quan niệm phương Tây về sự bình đẳng Nhìn
chung lại, về nguồn gốc của khái niệm nữ quyền hầu như các tác giả đều thống
nhất cho rằng đó là một khái niệm đến từ phương Tây và thực hành ở Việt Nam
thì chưa thích hợp. Họ cho rằng “Đáng sợ thay con gái không có giáo dục mà lại
chuyên quyền gia thất, thời bại hoại cang thường, cầm quyền quốc gia, thời đảo
điên chánh sự” và nếu “đem cái gương nữ quyền mà treo ở các nước giáo dục
chưa phổ cập, khác gì mượn đường cho hươu chạy, mà tưới thêm dầu vào đống lửa
cháy để cái thói hư càng ngày càng tệ hại”...
Tuy nhiên, qua các
bài báo, các tác giả đã thừa nhận vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử và
địa vị tương đối được tôn trọng của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Thái độ vừa
phản đối việc tuyên truyền cho tư tưởng nữ quyền phương Tây đồng thời vừa cổ
suý việc giáo dục dành cho phụ nữ và đẩy mạnh phụ nữ chức nghiệp - những nội
dung căn bản của lý thuyết nữ quyền tự do trong thời kì đầu của phong trào nữ
quyền phương Tây của các tác giả
trên NGC đã cho thấy nhận thức về khái niệm nữ quyền và bình đẳng
nam nữ của các tác giả trên NGC vẫn còn khá mơ hồ. Tính mơ hồ của các khái niệm
này có nguyên nhân từ việc tiếp nhận các khái niệm từ các nhà cải cách Trung Quốc
theo những cách khác nhau.
Báo NGC phát hành được 22 số thì bị đình bản
vào ngày 19 tháng 7 năm 1918. Sau khi NGC
đình bản năm 1918 đến khi cuốn sách đầu tiên về chủ đề Nữ quyền và Bình đẳng
nam nữ ra đời, các cuộc thảo luận trên báo chí về chủ đề phụ nữ chủ yếu xoay
quanh việc nhìn nhận lại vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội, vấn đề giáo
dục cho phụ nữ và những thay đổi trong đời sống phụ nữ trước sự tác động của những
thay đổi trong xã hội và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây …Cho đến cuối thập
niên 1920, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện các cuốn sách viết về nữ quyền và bình
đẳng nam nữ của các tác giả Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, các cuốn sách
chuyên khảo về đề tài này chính là di sản về tinh thần của giới trí thức Việt
Nam trong một giai đoạn có tính bản lề của toàn bộ tiến trình lịch sử dân tộc.
III.
Sự phát triển nhận
thức về nữ quyền và bình đẳng nam nữ qua những cuốn sách chuyên khảo.
a.
“Nam nữ bình quyền” của Đặng Văn Bảy, cuốn sách chuyên
khảo đầu tiên về vấn đề bình đẳng nam nữ ở Việt Nam
Sau chiến tranh thế
giới thứ I, Pháp thực hiện cuộc cải cách về giáo dục, cuộc cải cách giáo dục
này thường được biết tới dưới tên gọi là “Học chính tổng quy”. Theo quy định của
chính quyền thực dân Pháp, phụ nữ được theo học tại các trường Pháp- Việt đang
mọc lên trên khắp cả nước. Tại các làng quê, trẻ em gái cũng được tới trường. Lần
đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam, phụ nữ chính thức được tới trường học
tập. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây và những trí thức trong nhà trường Pháp
Việt đã làm hình thành nên tầng lớp nữ sinh Tây học, những “cô gái mới”… Trên
báo chí thời kỳ này xuất hiện nhiều bài viết về giáo dục cho phụ nữ, phụ nữ học
để làm gì và học như thế nào? Từ thực tế lịch sử, dưới thời phong kiến phụ nữ
không được đi học, nên hầu hết các trí thức Việt Nam tiến bộ coi việc giáo dục
cho phụ nữ là một biện pháp để thực hiện nữ quyền. Tuy nhiên, những thay đổi
trong cuộc sống của người phụ nữ có học, những “cô gái mới” đã trở thành một
thách thức đối với nếp sống và các giá trị đạo đức truyền thống. Trong bối cảnh
đó, cuốn Nam nữ bình quyền của Đặng
Văn Bẩy được coi là cuôn sách đầu tiên bàn về chủ đề này.
Đặng Văn Bẩy (1903-1983) là một giáo viên dạy
học tại tỉnh Vĩnh Long. Năm 1925, ông viết
cuốn Nam nữ bình quyền và hoàn thành nó vào năm 1927. Năm 1928
cuốn sách được xuất bản lần đầu tại nhà
in Tam Thanh (Sài Gòn). Sách gồm 60
trang, ngoài phần mở đầu và kết luận, sách có 6 chương: chương 1: Công lý và
nhơn đạo; chương 2: Gia đình khảo lược;
chương 3: Nữ lưu giáo dục sơ lược; chương 4: Bàn về chữ trinh; chương 5: Hôn
nhân; chương 6. Đạo vợ chồng.
Các chương của cuốn sách đã phản ánh bối cảnh xã hội và văn
hóa cũng như nhận thức về tư tưởng nữ quyền và bình đẳng nam nữ trong xã hội Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX, thực trạng địa vị bất bình đẳng của phụ nữ và ảnh
hưởng của các tư tưởng dân chủ mới, cũng như những thách thức của quá trình tiếp
nhận những tư tưởng mới này. Ngay từ lời mở đầu, tác giả đã thể hiện một tinh
thần phản tư, thừa nhận có những nhận thức sai lầm: “Ta không phải thánh hiền
từ trong bụng mẹ, nên sanh ra ta đã xa thánh hiền, mà thánh hiền còn nhận rằng
mình nhiều khi lỗi, thời ta cũng chẳng ra ngoài lẻ kia… Vì xưng tội, vì đau-đớn,
vì thương xót, tôi góp ý thành sách.”
Những cái lỗi mà tác giả nhận ra đó chính là quan niệm sai lầm dẫn đến cách
đối xử bất bình đẳng với phụ nữ.
Đặng Văn Bày đã phân tích tình trạng
bất bình đẳng giữa nam và nữ trong cách nhìn nhận địa vị của phụ nữ trong xã hội,
sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con gái và con trai… trong gia
đình. Theo ông sự bất bình đẳng này là
không hợp với công lý và nhân đạo. Tên cuốn sách là Nam nữ bình quyền, nhưng toàn bộ nội dung cuốn sách và các chương mục
thể hiện thái đô phê phán quan niệm coi thường phụ nữ và thực trạng bất bình đẳng
nam nữ trong xã hội. Ông viết: “Tôi đề xướng
nam nữ bình quyền là do thấy phần nhiều đàn bà con gái bị chê bỏ, hiếp đáp, còn
đàn ông con trai lại quá tự do. Phép công bình là đôi bên phải đồng, không
khinh không trọng, không thấp không cao. Ai đã mến phép công bình cũng chẵng
ghét vơ gì đến cái Nam Nử bình quyền nầy. Ai biết rằng bị người đè ép mình là
thiệt thôi, đau đớn cho mình, thời cũng nên biết rằng đè ép người là làm cho
người phải thiệt thòi đau đớn”
Ông phân tích lý do cần phải thực hiện “ bình đẳng nam nữ” trên 2 phương diện, lẽ
tự nhiên và đạo đức. Xét về lẽ tự nhiên” Sanh
ra, dầu trai dầu gái, cũng đồng là người, thời cái quyền của con người chẳng phải
riêng để cho một phe trai, mà cũng chung cho phe gái”, xét về đạo đức, “gái đã có người gánh việc nước nhà rạng danh
anh liệt như Trưng –Trắc, Trưng-Nhị, Triệu-Ẩu, theo nghề nghiên bút, rền tiếng
văn chương như Chi-Lan, Thị-Điểm, Xuân-Hương. Thế gái có kém gì trai, có khác
gì trai”. Những luận điểm của Đặng
Văn Bảy trong các chương thường gắn với các câu chuyện thực tế xoay xung quanh
trục chính là quan hệ trong gia đình, giữa chồng và vợ, giữa con gái và con
trai. Các câu chuyện này phản ánh thực trạng quan hệ bất bình đẳng giữa vợ và
chống như “chồng chúa vợ tôi”, “ xuất giá
tòng phu”, “ trọng nam khinh nữ”… và quan điểm về giáo dục dành cho phụ nữ: “Thế nào là thương con”, giáo dục về
thể chất ( thể dục), giáo dục tri thức ( Trí dục), giáo dục tư cách ( Đức dục)…
cho phụ nữ như thế nào... Ông phản bác quan niệm coi thường phụ nữ bằng một thực
tế lịch sử. Theo ông, phụ nữ được giáo dục sẽ là nguồn lực to lớn trong sự nghiệp
giành độc lập và kiến tạo đất nước… “ lúc
ông Phan-Sào-Nam về nước, đám tang ông Phan-tây-Hồ, lễ rước ông
Bùi-quang-Chiêu, ta lại muốn có mặt đàn bà dự vào đấy? Nếu ta xưa nay một lòng
cho con gái đi học như con trai, thời lẽ khi số người đàn bà đến trong mấy hội ấy
còn đông gấp mười, gấp trăm số ta đó thấy.”
Tác phẩm của Đặng Văn Bảy cũng phản ánh ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ phương
Tây và phong trào giải phóng phụ nữ khi đề cập đến khái niệm trinh tiết và quyền
của phụ nữ trong hôn nhân,” hôn nhân tự do” và “đạo vợ chồng”…Nhà Nghiên cứu
Bùi Trân Phượng đánh giá tác phẩm Nam nữ
bình quyền của Đặng Văn Bẩy là một “tư tưởng nữ quyền tiên phong và thấu
đáo”.
3.2. Phan Bội Châu và cuốn “Vấn đề phụ nữ”
Phan Bội Châu (1867-1940) là nhà yêu nước
và cách mạng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, linh hồn của phong trào yêu nước
đầu thế kỉ XX. Những hoạt động cách mạng của ông có ảnh hưởng lớn và thu hút
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Chính vì lẽ đó mà trong phiên toà xử
Phan Bội Châu, luật sư Bôna (Bonard) đã phải thừa nhận: “Trong mấy chục năm gần đây, lịch sử Phan Bội Châu đã lẫn lộn với lịch
sử của dân tộc’’. Mặc dù, trong suốt 20 năm
hoạt động của mình, Phan Bội Châu chưa có cái nhìn toàn diện, đúng đắn về những
lực lượng xã hội cơ bản như nông dân và công nhân nhưng Phan Bội Châu lại có
quan điểm tiến bộ về phụ nữ và sớm có ý thức vận động phụ nữ tham gia vào công
cuộc giải phóng dân tộc. Có thể nói đề tài phụ nữ là một trong những mảng đề
tài lớn trong các tác phẩm của ông.
Năm 1929, Duy Tân thư xã ở Huế đã xuất bản
cuốn Vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu.
Cuốn Vấn
đề phụ nữ có 31 trang khổ 14cm X 20,5cm gồm 3 chương: Chương 1: Địa vị với
lịch sử phụ nữ; chương 2: Nữ quyền; và chương 3: Phụ nữ vận động
Mở đầu cuốn Vấn đề phụ nữ Phan Bội Châu
đã khẳng định quyền của phụ nữ với tư cách là con người cũng như với tư cách là
dân của một nước bằng cách đặt câu hỏi: “Đàn
bà con gái có phải cũng loài người hay không?”, “Đàn bà con gái có phải cũng
quốc dân hay không?” và tự khẳng định “Chắc
không ai trả lời rằng “không phải được” . Với 3 chương sách, Phan
Bội Châu đã đi từ lịch sử loài người đến lịch sử phụ nữ để từ đó chỉ ra những
nguyên nhân lịch sử dẫn tới địa vị bất bình đẳng của phụ nữ. Ông cho rằng phụ
nữ có những đặc điểm riêng về sinh học, thể chất yếu ớt hơn nam giới, lại phải
mang chức năng sinh nở nên trong điều kiện lịch sử phải cạnh tranh gay gắt để
sinh tồn, chiến tranh giữa các bộ lạc…
đã khiến phụ nữ ở vị thế kém so với nam giới. Mặt khác, chính chiến
tranh đã làm cho phụ nữ trở thành đồ vật khi phụ nữ bị coi như một thứ chiến
lợi phẩm của bên thắng trận hoặc vì phụ nữ là mục đích của hành động cướp bóc
trong chiến tranh nên để tránh “cái hoạ
cướp mới nảy ra một cái lễ cho loài phụ nữ tức là một câu: “Phụ nữ bất xuất
khuê môn”- Đàn bà con gái không được đi ra khỏi cửa buồng.” Một lí do quan trọng làm
cho phụ nữ có địa vị thấp kém, theo Phan Bộ Châu đó là vì tư tưởng phong kiến “quyền
vua quá nặng nên mới sinh ra học thuyết tam cương”, “ vua bảo tôi chết, tôi
phải chết; cha bảo con chết, con phải chết; chồng bảo vợ chết, vợ phải chết”.
Về
nữ quyền, Phan Bội Châu đặt nữ quyền trong phạm trù chung về quyền con người.
Ông nói: “nữ quyền” nghĩa là quyền đàn bà
con gái cũng như “nam quyền” nghĩa là quyền người con trai, nhưng xét cho đến
gốc chân lý, thăm cho đến nguồn triết
học , thời “nữ quyền” với “nam quyền” tất cả thu nạp trong hai chữ “nhân quyền”,
nghĩa là quyền của người , mà cũng là quyền làm người”.
Điểm đặc biệt trong tác phẩm Vấn đề phụ
nữ của Phan Bội Châu là gắn quyền của phụ nữ với nghĩa vụ của phụ nữ với tư
cách một con người trong xã hội, và gắn với thực tế lịch sử Việt Nam đang nằm
dưới sự cai trị của ngoại bang. Những phân tích của Phan Bội Châu về nữ quyền
cuối cùng để đi đến kết luận: “Gánh việc
quốc gia, trả thù đánh giặc, con trai làm được lẽ đâu lại cấm con gái không
được làm” và “khi ta hết lòng gánh
việc xã hội tức là hết nghĩa vụ làm người mà quyền người mới có thể khôi phục
được. Quyền người đã khôi phục được thời quyền gái chẳng cần nói nữa” .
Một bước tiến trong nhận thức về nữ quyền trong tác phẩm Vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu đó là
ông dành 1 chương cho vấn đề vận động phụ nữ. Ở thời điểm này, Phan Bội Châu là
người duy nhất đặt vấn đề vận động phụ nữ và liên kết đoàn thể phụ nữ.
Phan Bội Châu cho rằng: Phụ nữ vận động là
một việc cần thiết trong xã hội đời bây giờ” và muốn bắt tay vào việc vận động
phụ nữ trước hết phải nhận thức được vai trò của phụ nữ trong xã hội, trong
quốc gia, trong loài người. Chủ trương vận động phụ nữ của Phan Bội Châu gồm 4
nội dung:
“1. Mở mang về đường
trí thức của phụ nữ
2. Liên
kết đoàn thể phụ nữ.
3. Chấn
hưng chức nghiệp của phụ nữ.
4. Nâng
cao địa vị của phụ nữ.”
Trong 4
nội dung trên theo Phan Bội Châu quan trọng nhất là việc nâng cao trình độ trí
thức cho phụ nữ vì chỉ có trên cơ sở nâng cao trình độ trí thức cho phụ nữ mới
có thể thực hiện nâng cao địa vị phụ nữ. Và ông cho rằng: “mình giáo dục lấy
mình đó là thượng sách”. Vì vấn đề phụ nữ phải do chính phụ nữ tự quyết định.
Đặt trong
bối cảnh nhận thức về nữ quyền và bình đẳng nam nữ ở Việt Nam những năm 1920
quan điểm về nữ quyền và bình đẳng nam nữ của
Phan Bội Châu đã vượt lên trên các trí thức tư sản trong việc tiếp nhận
các tư tưởng dân chủ tư sản trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
3.3.
“Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam” của Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc và khuynh hướng phê bình nữ quyền
Sang những
năm 1930, sau 2 cuộc khai thác thuộc địa cùng với kết quả của chương trình cải
cách giáo dục của Pháp, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây trong xã hội Việt Nam
trở nên sâu rộng hơn. Thời kỳ này được coi là thời kỳ “Âu hóa” triệt để. Đối
với phụ nữ, đây cũng là thời kỳ phong trào phụ nữ có nhiều hoạt động sôi nổi. Sự
ra đời của tờ báo Phụ nữ tân văn mở
đầu cho sự xuất hiện dòng báo phụ nữ trong giai đoạn này đã kéo theo nhiều cuộc
tranh luận về nữ quyền, bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ khi đề xướng
trưng cầu ý kiến của các danh nhân về vấn đề phụ nữ. Nội hàm của khái niệm nữ
quyền lúc này đã được mở rộng ra với đầy đủ nội dung: quyền học tập, quyền làm
việc và quyền chính trị của phụ nữ. Bên cạnh những ý kiến kêu gọi đấu tranh đòi
nữ quyền, giải phóng phụ nữ, cũng có không ít ý kiến phê phán phong trào này và
hiện tượng các cô gái mới, coi đó như một sự đe dọa đối với nền tảng gia đình
và đạo đức xã hội. Cuốn sách Vấn đề phụ
nữ ở Việt Nam của Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc là một cuốn sách theo
khuynh hướng phê bình nữ quyền này.
Cuốn Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam của Trần Thiện
Tỵ và Bùi Thế Phúc xuất bản năm 1932 gồm 7 chương. Trong lời mở đầu, các
tác giả xác nhận:“Xưa kia phụ nữ chỉ biết
có bổn phận của mình mà thôi và cho sự làm vẹn bổn phận là cái danh dự tối cao
của mình! Cái mục đích duy nhất trong đời là lo sao cho tròn các bổn phận
ấy:bổn phận đối với cha mẹ, bổn phận đối với chồng con, bổn phận đối với ông bà nội ngoại… Ngày nay không như
thế nữa, theo ngọn gió Tân trào người đàn bà An Nam đã đổi mới. Bắt chước chị
em Âu Mỹ chị em chẳng kể chi buổi quá vãng, ầm ầm cổ động nữ quyền”. Các tác giả phê phán
phong trào nữ quyền, và những người cổ súy phong trào nữ quyền là họ đã làm cho
con cái đối với cha mẹ, vợ đối với chồng, đàn ông đối với đàn bà trở nên thù
địch… và kết tội: “ làm cho 2 phần tử
quốc gia trở nên ghen ghét nhau là không biết thương nước thương nòi, một việc
phá hoại xã hôi. Sau này đứng trước lịch sử các ngài hãy tự lãnh cái trách
nhiệm nặng nề ấy”… Các tác giả đã phân tích
và tìm ra những hạt nhân hợp lý để lý giải cho việc phụ nữ có địa vị thấp kém
trong xã hội của một số quốc gia như Hi
Lạp, La Mã, Ấn Độ và Trung Hoa. Đó là vấn đề tôn giáo, tục thờ cúng tổ tiên,
vấn đề duy trì nòi giống và cấu trúc gia đình truyền thống… Các tác giả cũng
phân tích địa vị của phụ nữ Pháp và cho biết, phụ nữ Pháp hiện cũng chưa có
quyền lợi gì cả về kinh tế lẫn chính trị, văn hóa. Địa vị phụ nữ Việt Nam tuy
theo luật Gia long còn nhiều hạn chế do ảnh hưởng của Luật nhà Thanh ở Trung
Quốc, nhưng trên thực tế, những luật lệ ở địa phương vẫn vận dụng luật Hồng Đức
( thế kỷ 15) và vì vậy so với các nước
khác, địa vị phụ nữ Việt Nam có phần rộng rãi hơn và bình đẳng hơn. Các tác
giả cũng đề cập đến các vấn đề đang gây tranh cãi trên các diễn đàn báo chí như
: Phụ nữ giáo dục, phụ nữ chức nghiệp và hôn nhân tự do… Các tác giả không ủng
hộ việc phụ nữ đi làm, cho rằng phụ nữ đi làm sẽ không quán xuyến gia đình vốn
là bổn phận của họ, còn trong vấn đề hôn nhân, các tác giả đưa ra một quan điểm
trung dung hơn, đó là cha mẹ cũng cần quan tâm đến nguyện vọng của con cái khi
quyết định việc hôn nhân cho con cái... Riêng vấn đề giáo dục cho phụ nữ các
tác giả cho rằng đây là một việc hết sức cần thiết, và học không chỉ để chăm lo
gia đình mà cần nâng cao trình độ cho phụ nữ… Để kết luận các tác giả cho rằng:
“Phái nữ quyền có hô hào sao đi nữa cũng
không cải được lẽ của tạo hóa. Một người tôi mọi thuở xưa còn có thể nên người
tự do được. Nhưng một người đàn bà dẫu có quyền đến đâu nữa cũng vẫn là người
đàn bà.”
Cuốn sách Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam của Trần Thiện
Ty và Bùi Thế Phúc đã gây nên cuộc thảo luận trên báo chí và Nguyễn Thị Chính đã viết bài phê phán
những luận điểm trong cuốn sách này. Bài phê phán của Nguyễn Thị Chính cũng mở
ra một cuộc tranh luận trên báo chí giữa Nguyễn Thị Chính và Phan Khôi “Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan”
đăng trên báo Phụ nữ Tân văn ngày
7-14/7/1932. Cuộc tranh luận này được Shawn Mc. Hale đánh giá là “làm nền cho nhiều cuộc thảo luận về “cô gái
mới” và gia đình- hai chủ để rất được tầng lớp phụ nữ thượng lưu thời bấy giờ
quan tâm”.
3.4.
“Vấn đề phụ nữ” của Nguyễn Thị Kim Anh do
nhà xuất bản Thân dân ấn hành vào năm 1938.
Năm 1930, Đảng cộng
sản Việt Nam được thành lập. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng cộng sản đã đánh
giá cao vai trò của phụ nữ và ra nhiều nghị quyết về công tác vận động phụ nữ.
Trong Án
nghị quyết về công tác vận động phụ nữ, Đảng cộng sản đã nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ của Đảng là “làm cho phụ nữ thoát khỏi tư tưởng tư bổn,
đánh đổ cái mộng tưởng “nam nữ bình quyền” trong vòng tư bổn chủ nghĩa” và
lưu ý cần tuyên truyền cho phụ nữ nhận thức được rằng: Chỉ khi nào nước nhà được
độc lập, chế độ phong kiến bị xoá bỏ thì phụ nữ mới có cơ hội được bình đẳng thực
sự, được giải phóng thực sự, do vậy việc vận động phụ nữ tham gia vào các hoạt
động cách mạng là vô cùng quan trọng, “nếu
phụ nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt
mục đích giải phóng được”.
Để tthực hiện chủ trương vận động phụ nữ của Đảng, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên
truyền, nhiều phụ nữ được cử chuyên trách công tác vận động phụ nữ, không chỉ
viết bài trên các báo công khai phổ biến tư tưởng nữ quyền mác xít, phê phán
các quan điểm nữ quyền tư sản mà còn đi sâu vận động nữ công nhân, nông dân.
Theo nhiều nhà nghiên cứu Nguyễn Thi Kim Anh chính
là bút danh của Nguyễn Thị Minh Khai- một nữ trí thức cách mạng nổi bật trong
thời kỳ vận động cách mạng giải phóng dân tộc của nhân Việt Nam trước năm 1945.
Nguyễn thị Minh Khai tham gia cách mạng
từ sớm, bà đã tham dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức ở Quảng Châu.
Năm 1934, bà là đại biểu của Đảng cộng sản Đông Dương sang Nga tham dự đại hội
quốc tế cộng sản lần thứ 7. Tại Đại hội này bà đã đọc tham luận về “Vai trò của của phụ nữ Đông Dương trong cuộc
đấu tranh chống chiến tranh đé quốc và bảo vệ hòa bình”. Sau đó bà ở lại học
ở Đại học Phương Đông. Năm 1937 bà về Sài Gòn làm bí thư thành ủy Sài Gòn và phụ
trách công tác vận động phụ nữ của Đảng. Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông
Dương, dưới bút danh Kim Anh, Nguyễn Thị Kim Anh bà viết nhiều bài báo phổ biến
quan điểm nữ quyền Mac xit, đấu tranh với những quan niệm sai lầm trong việc nhận
thức các vấn đề về nữ quyền và giải phóng phụ nữ… trên các báo Dân chúng, Đời nay. .. Năm 1938, nhà xuất
bản Thân dân Chợ Lớn đã xuất bản cuốn sách Vấn
đề phụ nữ của bà.
Tác phẩm “Vấn đề phụ nữ” của bà gồm có 8 chương. Trong Lời nói đầu ( chương 1) Nguyễn
Thị Kim Anh nhấn mạnh “Vấn đề phụ nữ là một
vấn đề quan trọng trong những vấn đề xã hội, có mật thiết liên lạc với nền tảng
kinh tế chính trị của xã hội loài người”. Từ chương 1 đến chương 6, bà
trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin về địa vị của người phụ nữ trong lịch
sử loài người, từ xã hội nguyên thủy cho tới xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản
và xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, bà
dành nhiều trang để giới thiệu về địa vị của phụ nữ trong xã hội Xô viết: Sự
bình đẳng về chnh trị, tỷ lệ phụ nữ trong Đảng Cộng sản Liên Xô ngày càng
tăng, về kinh tế thì phụ nữ tham gia vào khắp mọi ngành nghề; Về văn hóa, số phụ
nữ có bằng đại học cũng tăng lên nhanh chóng từ 28% vào năm 1930 đến năm 1936
đã lên 36%. Phụ nữ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực y tế (chiếm 45%) và lĩnh vực
giáo dục (chiếm 90%) phụ nữ làm khoa học chiếm 30,2%, trong Viện hàn lâm phụ nữ
cũng chiếm tới 28%...
Chương 7 và chương 8 bà đi vào phân
tích “Hai xu hướng vận động đàn bà hiện
nay” (chương 7) và tình hình “Phụ nữ ở
Đông Dương” (chương 8). Ở chương 7 bà vạch rõ xu hướng vận động phụ nữ tư sản có điểm tiến
bộ là chống phong kiến, nhưng vẫn là cuộc vận động giải phóng phụ nữ trong “trật tự
của tư bản nhằm giữ đặc quyền bóc
lột của tư bản” Còn cuộc vận động phụ nữ của phụ nữ lao động là nhằm “chống lại chế độ người bóc lột người- nguyên
nhân sanh ra sự bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà, giữa người với người,
tranh đấu để thực hiện chế độ Xã Hội chủ nghĩa”. Bà cũng phân tích đặc điểm,
ý nghĩa cuộc vận động của phụ nữ phú hào, phụ nữ lao động, thái độ của quốc tế
Cộng sản đối với vấn đề phụ nữ từ đệ nhất quốc tế tới đệ nhị, đệ tam quốc tế…Chương
8 là chương phân tích tình hình và nhiệm vụ của cuộc vận động phụ nữ ở Đông
Dương. Cuối cùng bà kết luận: “Vấn đề phụ
nữ là vấn đề xã hội, cần phải đưa nó ra giải quyết ở phạm vi một nước, một xã hội”.
3.5. Bộ sách “Đời
chị em”và “Chị em phải làm gì” của Cựu Kim Sơn và Văn Huệ
Cũng trong năm 1938, phong trào đấu
tranh của nhân dân Việt Nam đòi dân chủ lên cao, Đảng cộng sản ra hoạt động
công khai, đẩy mạnh tuyên truyền vận động quần chúng tham gia đấu tranh. Cùng với
cuốn Vấn đề phụ nữ của Nguyễn Thị Kim
Anh phổ biến tư tưởng nữ quyền mac xit, Cựu Kim Sơn và Văn Huệ viết bộ sách ”Đời chị em” và “Chị em phải làm gì” góp phần tuyên truyền hướng dẫn phụ nữ đấu
tranh. Hai quyển sách này được xuất bản bởi nhà in Dân chúng.
Mở đầu cuốn Đời chị em các tác giả khẳng định “vấn đề phụ nữ, một vấn đề gay gắt đòi phải giải quyết ngay. Vấn đề phụ
nữ, thật vậy, là một vấn đề khá quan trọng”. Vì “hiểu rõ sự quan trọng của nó, chúng tôi mới xuất bản cuốn Đời chị em
này”.
Các tác giả cũng cho biết “Đời chị em mới là một cuốn sách đầu tiên
trong loại sách phụ nữ. Nó đặt cuộc đời của chị em phụ nữ Đông Dương dưới ánh sáng
thực tế, sau nó còn sách phụ nữ khác bày tỏ phương pháp chị em phải dùng, con
đường chị em phải đi để tới cõi hoàn toàn bình đẳng tự do.” Ngay trang cuối cuốn Đời chị em, có bài giới thiệu cuốn “Chị em phải làm gì?” là cuốn sách “nói rõ tại sao phải giải phóng phụ nữ Đông
Dương”
Cuốn “Đời chị em”có 41 trang, khổ nhỏ 14cmX
20,5cm, gồm 6 chương. Chương 1: “Sinh hoạt của các chị em”, các tác giả đã mô tả
thực trạng đời sống khó khăn khốn cùng của các tầng lớp phụ nữ trong xã hội từ
chị em vô sản, tới những phụ nữ phải đi
làm con sen, con ở, vú em, phụ nữ nông dân, phụ nữ tiểu thương, phụ nữ trí thức,
phụ nữ phong kiến và phụ nữ tư sản dưới chế độ phong kiến cũng như dưới chế độ
thuộc địa. Chương 2, chương 3 và chương 4 các tác giả trình bày về các hủ tục phong kiến,
chế độ hôn nhân và gia đình trói buộc phụ nữ, lý do vì sao phụ nữ Đông Dương phải
tham gia phong trào vận động giải phóng phụ nữ…Chương 5 về thực trạng mãi dâm trong
xã hội thuộc địa và chương 6 nói về tình cảnh chị em thất học. Ở chương này, các
tác giả nhấn mạnh vào những di hại của việc thất học đối với đời sông của phụ nữ.
Cuốn Chị em phải làm gì do Đồng
Xuân thư quán phát hành có 69 trang gồm
2 phần :
Phần 1: Chị em phải làm gì trog thời kỳ hiện tại. Phần này có 7 mục đặt vấn
đề “Tại sao phải giải phóng phụ nữ Đông Dương” và phân tích cuộc vận động giải
phóng phụ nữ Đông Dương, ở mỗi tầng lớp phụ nữ ( bình dân, phụ nữ tư sản,) các
tác giả phân tích hoàn cảnh cụ thể của họ
và gợi ý những mục tiêu đấu tranh, những khẩu hiệu phù hợp với điều kiện và mục
đích đấu tranh của họ. Các tác giả cũng vạch ra hững nhiệm vụ hiện nay của phụ
nữ, các khẩu hiệu đấu tranh, việc tổ chức và cách làm việc…
Phần 2 của cuốn sách có tiêu đề Chị em phải làm gì về tương lai đã đưa
ra đường hướng phát triển của cuộc vận động phụ nữ, những mục tiêu cần đạt tới
và đặc biệt nhấn mạnh phải gắn cuộc vận động giải phóng phụ nữ với việc giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực sự mang lại tự do và bình đẳng cho
phụ nữ…
.
Kết luận
Trong vòng chưa đầy
nửa thế kỷ, cùng với sự phát triển của báo chí và kỹ thuật in ấn, xuất bản, người
dân Việt Nam đã có điều kiện được tiếp cận với những tư tưởng mới, tư tưởng dân
chủ, nữ quyền và bình đẳng nam nữ …
Quá trình nhận thức
tư tưởng nữ quyền, bình đẳng nam nữ ở Việt Nam chịu tác động và được quy định bởi
những ảnh hưởng lâu dài của hệ tư tưởng Nho giáo lên đời sống xã hội, đặc biệt
là những định kiến của xã hội về địa vị và thân phận họ trong xã hội. Sự nhận thức này ngày càng trở
nên đầy đủ hơn, đặc biệt trong điều kiện của một nước thuộc địa, nhận thức về nữ
quyền và bình đẳng nam nữ sớm chuyển biến gắn cuộc vận động giải phóng phụ nữ với
giải phóng dân tộc. Từ những nhận thức đầy mơ hồ những năm đầu thế kỷ XX, chỉ
30 năm sau đó các trí thức Việt Nam đã thể hiện sự hiểu biết của mình về nữ quyền
và bình đẳng nam nữ từ điều kiện thực tiễn của Việt Nam qua những cuốn sách
chuyên khảo về nam nữ bình quyền, nữ quyền và cuộc vận động giải phóng phụ nữ…
Các sách chuyên khảo về chủ đề nữ quyền và
bình đẳng nam nữ được xuất bản trong thời kỳ này không chỉ phản ánh quá trình
nhận thức về những tư tưởng tự do và bình đẳng mà còn là di sản về tinh thần của
người dân Việt Nam và là nguồn tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về lịch sử tư tưởng Việt Nam cũng
như lịch sử phong trào nữ quyền, cuộc vận động giải phóng phụ nữ ở Việt Nam
trong những năm nửa đầu thế kỷ XX.
*. Bài đã đăng trong Kỷ yếu HT quốc gia"" Nữ quyền- những vấn đề lý luận và thực tiễn" ngày 8/10/2015, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, từ tr 173-186
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1.Nguyễn Thị Kim Anh ( 1938) Vấn đề phụ nữ, NXB Thân dân, Chợ Lớn
2.
Đặng
Văn Bảy(1928) Nam nữ bình quyền, Nhà
in Tam Thanh, Da Kao
3.
Phan
Bội Châu ( 1929) Vấn đề phụ nữ, NXBDuy
tân thư xã, Huế
4.
Đặng
Thị Vân Chi,(1998), “Phan Bội Châu với vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX” trong Phan Bội
Châu con người và sự nghiệp, Đại học quốc gia Hà Nội
5.
Đặng
Thị Vân Chi, (2001) “Vấn đè nữ quyền ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX” Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế Việt Nam lần thứ nhất, t4, NXB Thế giới
6.
Đặng
Thị Vân Chi, “Đường lối vận động phụ nữ của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng
giải phóng dân tộc (1930-1945)” Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế lần thứ 2: Việt Nam trên đường phát triển và Hội nhập: truyền thống và hiện
đại," t2, NXB Thế giới,
7.
Đặng Thị Vân Chi, “Dòng báo phụ nữ ở Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám năm 1945”, T/c NCLS tháng
6 /2006
8.
Đảng cộng sản Việt Nam,( 1998), Văn kiện Đảng toàn tập, t2, NXB Chính trị quốc gia
9.
Trần Hàn Giang,( 2003) “Lịch sử phát triển của lý thuyết
nữ quyền và Lý thuyết giới””, T/c Khoa học
về phụ nữ số 6 (161)
10.
Nguyễn Thị Ttường Khanh (2004) Nữ giới chung, tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học quốc gia Hà Nội.
11.
Tôn Quang Phiệt ( 1958), Phan Bội Châu và mỗi giai đoạn lịch sử chống Pháp của nhân dân Việt Nam,
NXB Văn Hóa, H,
12.
Cựu Kim Sơn, Văn Huệ( 1938) Đời chị em, NXB Dân Chúng
13.
Cựu Kim Sơn, Văn Huệ, (1938) Chị em phải làm gì, NXB Dân chúng,
14.
Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc ( 1932) Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, Sàigòn
15.
McHale Shawn
Frederick ( 1995) Priting,
power and the transformation of vietmames , 1920-1945 Dissertation, Cornell
University
16.
Các tờ báo xuất bản
trước năm 1945 đang được lưu giữ tại thư viện quốc gia Việt Nam
Những đại diện xuất sắc của trào lưu triết học
ánh sang là Môngtextkiơ (Charles Louis Montesquieu ) (1689-1755),
Vôn te (Voltaire )
(1694-1778) và đặc biệt là Giăng Giắc
Rút xô (-Jacques Rousseau)
(1712-1778)
1: Địa vị của phụ nữ ở Hy Lạp- La mã, Ấn độ và Trung Hoa; 2:
Địa vị đàn bà ở Châu Âu bây giờ; 3: Địa vị đàn bà Việt Nam;4: Vấn đề hôn nhân
cha mẹ nên nghe ý kiến con cái; 5: Vấn đề phụ nữ giáo dục; 6: Vấn đề phụ nữ
chức nghiệp; 7: Kết luận